Bản án số 47/2019/HS-ST ngày 06/11/2019 của TAND TX. Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 47/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 47/2019/HS-ST ngày 06/11/2019 của TAND TX. Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Cai Lậy (TAND tỉnh Tiền Giang)
Số hiệu: 47/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/11/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 47/2019/HS-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 06 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Minh T, sinh năm 1980.

- Số chứng minh nhân dân: 312407681.

- Hộ khẩu thường trú: Số A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

- Nơi cư trú hiện nay: Số A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Không.

- Trình độ học vấn: Lớp 04/12.

* Quan hệ gia đình:

- Họ và tên cha: Nguyễn Văn H (đã chết).

- Họ và tên mẹ: Cai Thị B (đã chết).

- Anh, chị, em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình.

- Bị cáo có vợ đã ly hôn, có 02 con.

- Tiền án, tiền sự: Không. - Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/8/2019 đến nay.

- Về nhân thân:

Ngày 28/8/2008 Nguyễn Minh T bị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về trộm cắp T sản theo Bản án số 115/2008/HSPT ngày 28/8/2019, chấp hành xong ngày 07/6/2009.

Ngày 21/6/2011 Nguyễn Minh T bị Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xử phạt 02 năm tù về trộm cắp T sản theo Bản án số 43/2011/HSST ngày 21/6/2011.

Ngày 26/9/2011 Nguyễn Minh T bị Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xử phạt 02 năm tù về trộm cắp T sản theo Bản án số 83/2011/HSST ngày 26/9/2011 và tổng hợp hình phạt với Bản án số 43/2011/HSST ngày 21/6/2011 là 04 năm tù.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy đã thu thập được tài liệu chứng minh Nguyễn Minh T chỉ chấp hành Bản án 43/2011/HSST ngày 21/6/2011 tại Trại giam Mỹ Phước – Bộ Công an trong thời hạn 02 năm đến ngày 21/3/2013 thì chấp hành xong. Đối với Bản án số 83/2011/HSST ngày 26/9/2011 Nguyễn Minh T chưa chấp hành. Vào ngày 01/11/2011 Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy ra quyết định thi hành án phạt tù số 153/2011/QĐ-CA để thi hành bản án số 83/2011/HSST ngày 26/9/2011, tuy nhiên đến nay bản án đã hết thời hiệu thi hành. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại:

- Bà Lê Thị L, sinh năm 1953; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Số 02, khu phố A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang

* Người làm chứng:

- Anh Thái Văn Đ, sinh năm 1964. (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp T, xã H, thị xã C, tỉnh Tiền Giang

- Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1977; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp T, xã H, thị xã C, tỉnh Tiền Giang

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1984; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp T, xã H, thị xã C, tỉnh Tiền Giang

- Chị Thái Thị Yến Ph, sinh năm 1990; (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp T, xã H, thị xã C, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 11 giờ ngày 11/02/2019 sau khi đã có uống rượu, Nguyễn Minh T, sinh năm 1980, hộ khẩu thường trú 24/487 khu phố 2, phường 1, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang thuê xe honda khách của một người chưa rõ nhân thân tại ngã tư Cai Lậy chở đi xã Mỹ Hạnh Đông, thị xã Cai Lậy để thăm người thân. Khi đi ngang qua nhà của bà Lê Thị L, sinh năm 1953, hộ khẩu thường trú ấp T, xã H, thị xã C thì T nhìn thấy trong nhà bà L có một con gà loại Đông Tảo đang thả rong nên nảy sinh ý định trộm cắp con gà này. T yêu cầu nam thanh niên điều khiển xe mô tô dừng xe lại và đợi T cách nhà bà L khoảng 20 mét, sau đó T đi bộ dọc theo hàng rào lưới B40 bên trái nhà bà L ra phía sau, đến đoạn lưới B40 bị sập nên T leo vào bên trong, T nhặt được một bao nilon màu trắng và sợi dây vải có sẵn trong vườn đi đến bắt con gà Đông Tảo cho bao lilon và cột lại. Lúc này, T nghe trong nhà bà L có tiếng chuông điện thoại nhưng không ai nghe máy, T đi ra cửa sau vào trong nhà trộm được 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu xanh nhãn hiệu Realme C1 Blue bỏ vào túi quần. Lúc này bà L về phát hiện truy hô, người điều khiển xe honda khách đang đợi phía trước nghe tiếng truy hô nên điều khiển xe chạy đi, T leo qua hàng rào lưới B40 bỏ chạy hướng ra cánh đồng lúa và vứt bỏ chiếc điện thoại di động vừa trộm được. Sau đó T bị người dân bắt giữ giao cho cơ quan Công an.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 con gà trống loại gà Đông Tảo lai, màu lông đỏ đen, trượng lượng 2,3 kg.

+ 01 bao nilon màu trắng, kích thước 43x73 cm, trên bao có chữ thức ăn chăn nuôi cá BASA – cá tra CATFISH – 1T501, khối lượng tịnh 10kg.

+ 01 sợi dây bằng vải thun màu trắng dài 41cm.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 con gà trống loại gà Đông Tảo lai, màu lông đỏ đen, trượng lượng 2,3 kg cho bà Lê Thị L.

Đối với điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu xanh nhãn hiệu Realme C1 Blue bị can T khai ném trên đường bỏ chạy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

Bản kết luận định giá T sản số 771 ngày 13/3/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Cai Lậy kết luận số T sản bị chiếm đoạt trên trị giá là 2.715.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự Bà Lê Thị L đã nhận con gà bị chiếm đoạt. Đối với điện thoại di động bị mất, bà L yêu cầu T bồi thường 2.490.000 đồng, T đã bồi thường đủ số tiền và bà L đã có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự cho T.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, nên không có ý kiến gì đối với nội dung bản cáo trạng và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về phụ giúp gia đình lo cho con. Bản cáo trạng số 49/CT-VKSTXCL ngày 09 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiển sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh T đã thừa nhận hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh T về tội trộm cắp T sản. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy đã giao trả lại Tài sản cho bị hại đã xong. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 09 đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự phía bị hại bà Lê Thị L vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện trong hồ sơ là đã nhận lại đủ T sản, có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự cho bị cáo T và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết. Về xử lý vật chứng: Đối với vất chứng là 01 bao nilon màu trắng, kích thước 43x73 cm, trên bao có chữ thức ăn chăn nuôi cá BASA – cá tra CATFISH – 1T501, khối lượng tịnh 10kg; 01 sợi dây bằng vải thun màu trắng dài 41cm đây là công cụ bị cáo T dùng vào việc phạm tội, hiện không có giá trị; nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Việc vắng mặt người bị hại, người làm chứng: Xét thấy, trong hồ sơ đã có lời khai của người bị hại, người làm chứng và việc vắng mặt những người này không làm ảnh hưởng đến việc xét xử đối với bị cáo T. Căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt phía người bị hại, người làm chứng.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Cai Lậy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Minh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là: Vào khoảng 13 giờ ngày 11/02/2019 tại ấp T, xã H, thị xã C bị cáo Nguyễn Minh T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 con gà loại Đông Tảo và 01 điện thoại di động của bà Lê Thị L. Theo bản kết luận định giá số 771 ngày 13/3/2019 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự thị xã Cai Lậy, định giá T sản bị cáo trộm cắp của bà Lê Thị L trị giá là 2.715.000 đồng. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Trộm cắp tái sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đúng với kết luận luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy giữ quyền công tố tại phiên tòa hôm nay.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo T thật vô cùng táo bạo và liều lĩnh, ngang nhiên giữa ban ngày, không người để ý và lợi dụng sự mất cảnh giác của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để trộm cắp tài sản. Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo T đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được luật pháp nhà nước ta bảo vệ, cụ thể trong vụ án này tài sản của người bị hại bà L bị xâm phạm, mà nó còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương nơi xảy ra tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo T thể hiện sự xem thường pháp luật, nên cần xử phạt bị cáo T với mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo T có các tình tiết giảm nhẹ là: Bị cáo đã đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo T không có tiền án, tiền sự; về trình độ học vấn 04/12 nên nhận thức về pháp luật có phần hạn chế. Do vậy, cần xem xét chiếu cố phần nào mức hình phạt đối với bị cáo nhưng cũng phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt giúp ích cho xã hội sau này.

[8] Đối tượng tên Tuấn là người điều khiển xe mô tô chở bị cáo T, qua xác minh không có đối tượng này. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả 01 con gà trống loại gà Đông Tảo lai, màu lông đỏ đen, trượng lượng 2,3 kg cho bà Lê Thị L đã xong, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết. Đối với điện thoại di động màn hình cảm ứng, màu xanh nhãn hiệu Realme C1 Blue bị cáo T khai ném trên đường bỏ chạy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết. Riêng đối với 01 bao nilon màu trắng, kích thước 43x73 cm, trên bao có chữ thức ăn chăn nuôi cá BASA – cá tra CATFISH – 1T501, khối lượng tịnh 10kg; 01 sợi dây bằng vải thun màu trắng dài 41cm đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, hiện không có giá trị, nền cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Phía bị hại bà Lê Thị L vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện trong hồ sơ là đã nhận lại đủ T sản, có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự cho bị cáo T và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết

[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[12] Xét ý kiến và đề nghị của phía đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận đề nghị của phía đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

 1 . Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội” Trộm cắp T sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự .

Xử: Phạt bị cáo Nguyễn Minh T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giam là ngày 02/8/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 bao nilon màu trắng, kích thước 43x73 cm, trên bao có chữ thức ăn chăn nuôi cá BASA – cá tra CATFISH – 1T501, khối lượng tịnh 10kg; 01 sợi dây bằng vải thun màu trắng dài 41cm.

(Vật chứng trên được Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Cai Lậy và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy lập ngày 31/10/2019)

3. Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí.

- Buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng các điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại bà Lê Thị L vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất