Bản án số 385/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 385/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 385/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Thủ Đức (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 385/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/12/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 385/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 342/2020/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 393/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Hoàng L; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1994; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 2C/21/6/8 đường B, phường 27, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Hoàng L và bà: Cung Thị L; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Không Tiền sự:

Quyết định số 424 ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng đến ngày 21/02/2019 chấp hành xong.

Nhân thân:

Quyết định xử phạt hành chính số 32754 ngày 4/1/2017 của Công an quận Bình Thạnh xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe người khác, đã đóng phạt ngày 17/3/2017.

Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 10/8/2020. Bị cáo Lê Hoàng L có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hoàng L sử dụng ma túy từ năm 2014 nên vào khoảng 12 giờ ngày 10/8/2020, L đem theo gói nylon chứa ma túy đá được người bạn tên H (chưa rõ lai lịch) cho vào 4 ngày trước để sử dụng. L giấu ma túy đá trong nếp gấp tay áo Jean bên trái của L đang mặc rồi thuê xe ôm đến quán cà phê không tên tại địa chỉ 519 Q, khu phố 3, phường L, quận Thủ Đức để gặp bạn tên L (không rõ lai lịch) đến uống cà phê cùng. Lúc 13 giờ cùng ngày, L đang ngồi đợi L đến thì bị Công an phường L kiểm tra bắt quả tang thu giữ 01 gói ny long chứa tinh thể không màu trong nếp gấp tay áo Jean màu xanh bên trái L đang mặc nên đưa L và tang vật về phường Linh Xuân lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Lê Hoàng L đã khai nhận hành vi phạm tội như trên Kết luận giám định số 1372/KLGĐ-H ngày 18/8/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m (thu giữ của L) cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9676 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1372 có chữ ký Giám định viên Nguyễn Xuân Sang bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng có sim 0931145185.

Tại bản Cáo trạng số 340/CT-VKSTĐ ngày 10/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Lê Hoàng L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Lê Hoàng L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu và kết luận: Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Hoàng L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo từ: 03 (ba) năm 06 tháng đến 04 (bốn) năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lê Hoàng L không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

2 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 10/8/2020, tại quán cà phê không tên, địa chỉ số 519 đường Q, khu phố 3, phường L, quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Hoàng L bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn có khối lượng 4,9676g loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Hoàng L đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chưa được xóa và nhân thân xấu đã bị xử lý hành chính. Tuy nhiên có xem xét, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Đối với người thanh niên tên H (không rõ lai lịch) cho ma túy cho L sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1372 có chữ ký Giám định viên Nguyễn Xuân Sang bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng có sim 0931145185 bị cáo khai không dùng để liên lạc mua ma túy nên tuyên trả cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

3 Xử phạt bị cáo Lê Hoàng L: 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/8/2020.

3- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng có sim 0931145185.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 1372 có chữ ký Giám định viên Nguyễn Xuân Sang bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2021/36 ngày 11/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

4- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Lê Hoàng L phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất