Bản án số 38/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 của TAND huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 38/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 38/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 của TAND huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Sốp Cộp (TAND tỉnh Sơn La)
Số hiệu: 38/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/08/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 38/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/QĐXXST-HS ngày 06/8/2019 đối với bị cáo:

Giàng A S, tên gọi khác: Không, sinh năm 1977, giới tính: Nam, tại xã Nậm T, huyện SM, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản Huổi M, xã Mường L, huyện SM, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Giàng Giống L và bà Vàng Thị C; có vợ và có 5 con; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/4/2019 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 18 tháng 4 năm 2019 Giàng A S đi lấy củi tại khu vực bản Huổi Lầu, xã Mường Và gặp và mua được 10 viên ma túy tổng hợp với số tiền 250.000 đồng của một người dân tộc Mông không quen biết, mục đích để sử dụng cho bản thân, đã bị Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải đang mặc của S 10 viên ma túy nói trên; Vật chứng được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/4/2019 tại phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng 10 viên ma tuý tổng hợp màu hồng của Giàng A S có khối lượng 1,03 gam, đã trích hết 10 viên làm mẫu giám định ký hiệu S.

Tại bản kết luận giám định số 796 ngày 21/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu S là ma túy, loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,03gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,03; loại Methamphetamine”.

Bản cáo trạng số 38 /CT-VKS ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Giàng A S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38 ; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Giàng A S từ 15 tháng đến 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; các vật chứng không có giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu hủy.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Về nguồn gốc 1,03 gam ma túy, bị cáo khai mua của một người dân tộc Mông không quen biết, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ khác chứng minh, nên cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận của bị cáo, vật chứng của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định tội danh:

Tại phiên tòa bị cáo Giàng A S khai nhận khoảng 16 giờ ngày 18 tháng 4 năm 2019 đã mua 10 viên ma túy tổng hợp có khối lượng 1,03 gam với số tiền 250.000 đồng của một người dân tộc Mông không quen biết, đã bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện bắt quả tang thu giữ số ma túy trên; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 17 giờ ngày 18 tháng 4 năm 2019; Biên bản cân tịnh vật chứng ngày 19/4/2019, kết luận giám định số 796, ngày 21/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 1,03 gam Methamphetamine.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Giàng A S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội trên địa bàn, bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, nhằm răn đe giáo dục và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, trước khi phạm tội chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với tội danh và điều luật áp dụng, không có ý kiến tranh luận khác.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng. [6]Về vật chứng:

Vật chứng là 1,03 gam ma túy, loại Methamphetamine đã dùng hết để giám định và không hoàn lại mẫu, nên không đề cập để giải quyết tiếp.

Vật chứng còn lại: 01(một) chiếc phong bì màu trắng của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La, đã niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi:

«Vật chứng lưu kho vụ: Giàng A S, sinh năm 1977, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 18/4/2019, bên trong có 01 phong bì thư niêm phong ban đầu cùng 01 mảnh nilon màu hồng », không có giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo So phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH:

1.Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Giàng A S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt Giàng A S 18 (Mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/4/2019.

Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

2. Vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy 01 (Một) chiếc phong bì màu trắng của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã niêm phong dán kín, mặt trước phong bì ghi: «Vật chứng lưu kho vụ: Giàng A S, sinh năm 1977, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 18/4/2019, bên trong có 01 phong bì thư niêm phong ban đầu, cùng 01(một) mảnh ni lon màu hồng».

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Giàng A S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/8/2019).

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất