Bản án số 368/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 368/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 368/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Thủ Đức (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 368/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/12/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 368/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 376/2020/TLST-HS ngày 11/12/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 398/2020/QĐXXST-HS ngày 16/12/2020, đối với bị cáo:

Trần Phi Đ; sinh năm: 1989; tại: tỉnh H; hộ khẩu thường trú: Xã X, huyện H, tỉnh H; nơi cư trú: nhà số x, đường y, khu phố z, phường T, Quận A, Thành phố H; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Phi Th (chết); và bà: Cao Thị T; vợ: Nguyễn Thị Ngọc N, có 02 con (sinh năm 2014, 2018); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 22/11/2020. (Có mặt)

- Bị hại: Anh Vũ Xuân P, sinh năm 1985, địa chỉ: Số x đường n, khu phố m, phường T, quận T, Thành phố H. (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Phan Thanh H, sinh năm 1999. (Vắng mặt)

2. Anh Võ Văn N, sinh năm 1973. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Do không có tiền nên Trần Phi Đ nảy sinh ý định tìm tài sản để sơ hở lấy trộm. Khoảng 07 giờ ngày 22/11/2020, Trần Phi Đ điều khiển xe mô tô biển số 51P8-2242 vào khu dân cư V, khu phố x, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức. Khi đến công trình xây dựng nhà số n, đường m, KDC V, Đ để xe bên ngoài và mang theo 01 ba lô vải đi bộ vào công trình. Đ đi lên lầu 1 phát hiện chỗ để vật tư xây dựng, thiết bị thi công có nhiều cuộn dây điện chưa qua sử dụng của anh Vũ Xuân P là chủ thầu xây dựng, không có người trông coi nên lấy trộm 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại CV 8.0 còn nguyên rồi đi xuống đem ra cất giấu trước cửa hầm căn hộ số 95. Đ tiếp tục đi lên lầu 1 nhà số 103 lấy 4 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại Cv 2.5 còn nguyên đem lên lầu 2 bỏ vào ba lô rồi đi xuống lầu 1 thì bị anh Phan Thanh H, Võ Văn N (là thợ hồ) phát hiện. Biết có người phát hiện, Đ mang ba lô dây điện cất giấu ở góc phòng vật tư lầu 1 rồi đi ra ngoài lên xe bỏ chạy. Thấy vậy, anh N và Nguyễn Văn T lấy xe đuổi theo bắt được Đ cùng vật chứng giao cho Công an phường Hiệp Bình Phước lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Trần Phi Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài số 2366 ngày 27/11/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Thủ Đúc kết luận: 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại CV8.0 có giá 4.000.000 đồng; 04 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại Cv2.5 có giá là 2.320.000 đồng. Tổng là 6.320.000 đồng (BL: 22).

Vật chứng vụ án gồm:

- 02 cuộn ây điện hiệu Calivi loại CV8.0 còn nguyên đai; 04 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại Cv 2.5 còn nguyên. Ngày 27/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức ra quyết định trả cho anh P.

- 01 ba lô màu đen;

- 01 xe mô tô Honda cub biển số 51P8-2242, số khung: C70-6401515, số máy:C70E-5001587. Kết quả xác minh đứng tên chủ sở hữu là anh Nguyễn Kế Tr ngụ: số a, đường b, phường 2, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả xác minh tại Công an Phường 2, quận Bình Tân xác định hiện nay anh Tr không thực tế cư ngụ tại địa chỉ trên. Đ khai mua xe trên vào tháng 10/2020 của người tên Dũng không rõ lai lịch với giá 2.300.000 đồng để làm phương tiện đi lại (13L: 42- 43).

Trách nhiệm dân sự: Anh P đã nhận tài sản và không yêu cầu gì.

[2] Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/CT-VKSTĐ ngày 09/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Trần Phi Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Phi Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Quyết định truy tố của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, cùng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi để xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù, phần dân sự đã giải quyết xong, tịch thu tiêu hủy chiếc ba lô, công bố tìm chủ sở hữu chiếc xe mô tô Honda cub biển số 51P8-2242, số khung: C70-6401515, số máy:C70E-5001587, nếu không tìm được chủ sở hữu xe thì tịch thu xe sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo Trần Phi Đ không tranh luận, bào chữa. Bị cáo Trần Phi Đ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Phi Đ phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo Trần Phi Đ đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại anh Vũ Xuân P, tài sản chiếm đoạt là 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại CV8.0 có giá 4.000.000 đồng, 04 cuộn dây điện hiệu Cadivi loại Cv2.5 có giá là 2.320.000 đồng, tổng là 6.320.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Trần Phi Đ đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại anh Vũ Xuân P nhận lại tài sản, không yêu cầu gì khác, phần dân sự đã giải quyết xong.

- 01 ba lô màu đen là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô Honda cub màu đỏ, biển số 51P8-2242, số khung: C70- 6401515, số máy: C70E-5001587. Kết quả xác minh đứng tên chủ sở hữu là anh Nguyễn Kế Tr, ngụ: số a, đường b, phường 2, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả xác minh tại Công an Phường 2, quận Bình Tân xác định hiện nay anh Tr không thực tế cư ngụ tại địa chỉ trên; bị cáo Đ khai mua xe trên để làm phương tiện đi lại. Xét thấy xe hiện không xác định được chủ sở hữu, bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, vì vậy cần thông báo để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, hết thời hạn 6 tháng mà không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để sung quỹ Nhà nước.

[4] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Tuyên bố bị cáo Trần Phi Đ phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Phi Đ 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2020.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 ba lô màu đen.

+ Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của 01 xe mô tô Honda cub màu đỏ, biển số 51P8-2242, số khung: C70-6401515, số máy: C70E-5001587. Hết thời hạn 6 tháng mà không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để sung quỹ Nhà nước.

(Phiếu nhập kho số 059 ngày 09/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức)

- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Phi Đ chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày tính kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất