Bản án số 367/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 367/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 367/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Thủ Đức (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 367/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/12/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 367/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 374/2020/TLST-HS ngày 10/12/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 397/2020/QĐXXST-HS ngày 11/12/2020, đối với bị cáo:

Đỗ Phú K; sinh năm: 1996; tại: Thành phố H; hộ khẩu thường trú: đường m, khu phố n, phường x, quận y, Thành phố H; nơi ở: đường a, khu phố b, phường c, Thành phố d, tỉnh E; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Phú Đ (C).; và bà: Lê Thị Kim T; vợ: Trịnh Thanh Th, có 3 con (lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2019); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 30/6/2020. (Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh NLC1, sinh năm 1995. (Vắng mặt)

2. Anh NLC2, sinh năm 1995. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Đỗ Phú K là người nghiện ma túy từ năm 2017 đến ngày bị bắt. Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, K mua ma túy về bán cho người nghiệm kiếm lời. Khoảng 21 giờ ngày 29/6/2020, K điều khiển xe mô tô biển số 59F1-abc.de đến khu vực S, phường n, Quận m, Thành phố H gặp người thanh niên không rõ lai lịch mua ma túy với giá 900.000 đồng rồi đem về nhà cất giấu. Khoảng 11 giờ 25 phút ngày 30/6/2020, K nhận được điện thoại của người tên An (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy với giá 1.200.000 đồng, thì K đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy trên đường a thuộc khu phố b, phường c, quận d. Đến 11 giờ 45 phút cùng ngày, K điều khiển xe ô tô biển số 59F1-043.46 mang theo ma túy đến trước nhà không số, đường a thuộc khu phố b, phường c, quận d thì bị Công an quận d kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu trong gói thuốc lá Jet thu giữ trong hộc để đồ phía trước bên trái dưới cổ xe mô tô biển số 59F1-abc.de, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu trong gói thuốc lá Bastos thu giữ trong hộc để đồ phía trước bên trái dưới cô xe mô tô biển số 59F1-abc.de mà K đang điều khiển, 01 gói nylon bên trong có 04 gói nylon nhỏ chứa tinh thể không màu được thu giữ trong túi quần soóc, phía trước bên trái mà K đang mặc và 01 điện thoại di động. K khai mới lần đầu đi bán ma túy.

Bản kết luận giám định số 1121/KLGD-H ngày 08/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận số 12 túy thu giữ của K gồm:

+ Gói 1:

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1, cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1950g, loại Methamphetamine;

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4080g, loại Methamphetamine + Gói 2: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m3 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,5128g, loại Methamphetamine; (BL 29).

Vật chứng vụ án:

- 02 gói niêm phong ghi vụ số 1121 có chữ ký GĐV Trần Đình Hải bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6;

- 01 xe mô tô biển số 59F1-043.46, số khung: KLCL44S10AY-019111, số máy: 4431-019112. Kết quả xác minh số khung, số máy không có dữ liệu tra cứu. Kết quả xác minh biển số xe đứng tên là anh Nguyễn Quang V, sinh 1984, ngụ: đường m, Phường n, Quận x, Thành phố H là loại xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, số khung: Y-xxxxxx, số máy: 1994-yyyyyy. Hiện xe trên anh Vũ đang sử dụng. K khai mua xe trên của người bạn tên Tuấn không rõ lai lịch với giá 5.500.000 đồng có làm giấy tờ mua bán tay nhưng chưa đưa giấy đăng ký xe

[2] Bản Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 09/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Đỗ Phú K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Phú K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để xử phạt bị cáo từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù, tịch thu tiêu hủy ma túy, tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6, công bố tìm chủ sở hữu xe mô tô biển số 59F1- abcd-de, số khung: KLCL44S10AY-xxxxx, số máy: 4431-yyyyyy, hết thời hạn không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu xe sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo Đỗ Phú K không tranh luận, bào chữa. Bị cáo Đỗ Phú K nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Phú K phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo Đỗ Phú K đã có hành vi cất giữ ma túy nhằm mục đích để bán, với ma túy thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng tổng cộng 1,1158 g loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Đỗ Phú K đã phạm “Tội mua bán trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ vụ lợi, để có ma túy thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán ma tuý, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Vì vậy, cần xử lý bị cáo theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, bằng hình phạt tù có thời hạn, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung. Không có chứng cứ chứng minh bị cáo mua bán ma túy nhiều lần nên không có cơ sở để xử lý bị cáo với tình tiết phạm tội nhiều lần.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và loại tội phạm bị cáo đã thực hiện, cần căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, áp dụng hình phạt phụ bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 02 gói niêm phong ghi vụ số 1121 có chữ ký GĐV Trần Đình Hải bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành, - 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, số Imei 355876064773678, kèm thuê bao 0918955815 là phương tiện liên lạc để phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 xe mô tô hiệu Lavias biển số 59F1-abcd-de, số khung: KLCL44S10AY- xxxxx, số máy: 4431-yyyyyy, Kết quả xác minh số khung, số máy không có dữ liệu tra cứu. Kết quả xác minh biển số xe đứng tên là anh Nguyễn Quang V, sinh 1984, ngụ: đường m, Phường x, Quận y, Thành phố H là loại xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, số khung: Y-043660, số máy: 1994-043661. Hiện xe trên anh Vũ đang sử dụng. K khai mua xe trên của người bạn tên Tuấn không rõ lai lịch với giá 5.500.000 đồng có làm giấy tờ mua bán tay nhưng chưa đưa giấy đăng ký xe. Xét thấy xe không được đăng ký, bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, vì vậy, cần tịch thu xe nộp ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Phú K phạm “Tội mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Phú K 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2020. Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Phú K 10.000.000 (Mười triệu) đồng.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong ghi vụ số 1121 có chữ ký GĐV Trần Đình Hải bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng, số Imei 355876064773678, kèm thuê bao 0918955815; 01 xe mô tô hiệu Lavias, biển số 59F1-abcd-de, số khung: KLCL44S10AY-xxxxx, số máy: 4431-yyyyyy.

(Phiếu nhập kho số 056 ngày 01/12/2020, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Đỗ Phú K chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất