Bản án số 366/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 366/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 366/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của TAND Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Thủ Đức (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 366/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/12/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 366/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 368/2020/TLST-HS ngày 30/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 385/2020/QĐXXST-HS ngày 08/12/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Nhị P; sinh năm: 1982; tại: Thành phố H; hộ khẩu thường trú: đường số n, khu phố m, phường T, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L; và bà: Lý Thị Mỹ L; vợ: Đoàn Thị Thuỷ T; có 02 con (sinh năm 2011, 2012); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 31/8/2020. (Có mặt)

- Người làm chứng: Anh Phạm Đông H, sinh năm 1995. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Nguyễn Nhị P là người nghiện ma túy từ năm 2013 đến ngày 31/8/2020 thì bị bắt. Lúc 16 giờ 30 phút ngày 31/8/2020, P đang đi bộ trên đường 12, khu phố 8, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, P gặp Phạm Đông H (là người quen trong xóm) đang đi giao muối cho mẹ vợ C ở gần cầu N phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì P nhờ H chở đi cùng thì H đồng ý. Khi đến trước nhà số x đường y, khu phố z, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì Hải đi vào giao muối, còn P ở ngoài gặp người thanh niên khoảng 20 tuổi (không rõ lai lịch) hỏi mua 01 gói ma túy giá 200.000 đồng, người thanh niên cầm tiền đi vào bên trong nhà cầm gói ma túy ra bán cho P. Khoảng 10 phút sau, Hải giao muối xong đi ra thì P nhờ Hải chở về nhà, khi đến trước nhà số t đường y, khu phố z, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức thì bị Công an quận Thủ Đức kiểm tra và thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu được thu giữ trong lòng tay trái của P, nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng trưng cầu giám định (bút lục 01).

Bản kết luận giám định số 1532/KLGĐ-H này 08/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận; số ma tuý thu giữ của P: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2780g (không phẩy hai bảy tám không gam), loại Methamphetamine (bút lục 26).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Nhị P khai nhận P mua ma túy về sử dụng, không bán lại cho ai; Phạm Đông H không biết P mua ma túy cất giữ ma túy trong người, phù hợp với người làm chứng, vật chứng và tài liệu chứng khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1532 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

[2] Bản Cáo trạng số 367/CT-VKS ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Nhị P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Nhị P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Nhị P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, và các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo thuộc gia đình có công với cách mạng, để xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù, tịch thu tiêu hủy ma túy, buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Nhị P không tranh luận, bào chữa. Bị cáo Nguyễn Nhị P nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Nhị P phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2780g, loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Nhị P đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Vì vậy, cần xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt phụ bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1532 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhị P phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Nhị P 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2020.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 1532 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định. (Phiếu nhập kho số 063 ngày 15/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức)

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Nhị P chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất