Bản án số 331/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 331/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 331/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Dĩ An (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 331/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/08/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 331/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 296/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 329/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Trường L (tên gọi khác: H), sinh năm 1985 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 85B/1 khu phố B Th 2, phường B A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Trường Thành, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1958; bị cáo có 02 anh ruột, lớn sinh năm 1977, nhỏ sinh năm 1981; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 01/10/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm 02 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án hình sự số 263/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/4/2011.

- Ngày 11/9/2012, bị Ủy ban nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa người vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 7117/QĐ- UBND, chấp hành xong 17/6/2014.

- Ngày 26/5/2015, bị Công an phường A Ph, thị xã Th A (nay là thành phố Th A), tỉnh Bình Dương xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, chấp hành xong quyết định ngày 29/5/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2020; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Trường Th, sinh năm 1955; thường trú: Số 85B/1 khu phố B Th 2, phường B A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; có mặt.

*Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn Gi, sinh năm 1965; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trường L là người nghiện ma túy. Khoảng 08 giờ 09/5/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Linh đón xe Grap xuống khu vực B V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 03 tép Heroine chứa trong 03 đoạn ống hút nhựa mà trắng với giá 120.000 đồng. Sau khi mua ma túy, L sử dụng hết 01 tép Heroine. Số còn lại L cất giấu trong bao thuốc lá hiệu Hòa Bình và bỏ trong túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đón xe đi về nhà. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô biển số 61FB-4151 đi công việc, khi chạy đến đường Đ S T, khu phố N H 1, phường B A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra Công an phường B A phối hơp với đội Cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra lực lượng Công an phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của L có 01 gói thuốc lá hiệu Hòa Bình bên trong có 02 đoạn ống hút màu xanh hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng, Linh khai nhận là ma túy nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói thuốc lá hiệu Hòa Bình; 02 (hai) đoạn ống hút màu xanh hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng và 01 (một) xe mô tô biển số 61FB- 4151.

Căn cứ Kết luận giám định số: 281/MT-PC09 ngày 15/5/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu chất màu trắng trong 02 đoạn ống hút nhựa màu xanh hàn kín thu giữ của Nguyễn Trường L gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1705 gam, loại Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 281/MT-PC09 ngày 15/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương.

Đối người phụ nữ đã bán ma túy cho Nguyễn Trường L tại khu vực B V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên đang tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Tại cáo trạng số: 333/CT – VKS ngày 16 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Trường L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Trường L mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 61FB-4151, số máy: 8956579, số khung: 895642, quá trình điều tra xác định được là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Trường Th, ông Th cho Nguyễn Trường L mượn làm phương tiện đi lại, không biết Linh sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe trên cho ông Th.

- Đối với 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1577 gam mẫu vật còn lại sau giám định và 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Hòa Bình là tang vật của vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 14 giờ ngày 09/5/2020 tại đoạn đường Đ S T, khu phố N H 1, phường B A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Công an phường Bình An phối hơp với đội Cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của Nguyễn Trườnng L có 01 gói thuốc lá hiệu Hòa Bình bên trong có 02 đoạn ống hút màu xanh hàn kín hai đầu chứa tinh thể màu trắng là ma túy có khối lượng 0,1705 gam, loại Heroine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Trường L tàng trữ ma túy có khối lượng 0,1705 gam, loại loại Heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Cáo trạng số: 333/CT-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Trường L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Trộm cắp tài sản, đã được xóa án tích, đã từng đưa vào cơ sở chữa bệnh và là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời bị cáo có nhân thân xấu và là người nghiện ma túy. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 61FB-4151, số máy: 8956579, số khung: 895642, quá trình điều tra xác định được là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Trường Th, ông Thành cho Nguyễn Trường L mượn làm phương tiện đi lại, không biết L sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe trên cho ông Th là đúng quy định của pháp luật.

- Xét 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1577 gam mẫu vật còn lại sau giám định và 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Hòa Bình là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối người phụ nữ đã bán ma túy cho Nguyễn Trường L tại khu vực B V, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên đang tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy, loại Heroine, có khối lượng sau giám định 0,1577 gam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Hòa Bình.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Trường L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất