Bản án số 15/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 15/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 15/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh Bắc Kạn)
Số hiệu: 15/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/10/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CM, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. TRIỆU QUANG H, tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 07 tháng 5 năm 1990 tại huyện CM, tỉnh Bắc Kạn;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn TT, xã TM, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12;

Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Triệu Văn T (đã chết) và bà Chu Thị N;

Bị cáo có vợ là Hà Thị N và 02 con (con lớn sinh năm 2014; con nhỏ sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/01/2019, đến ngày 31/01/2019 thì bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Kạn từ đó cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

2. ĐINH LÂM V, tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 30 tháng 8 năm 1977 tại huyện CM, tỉnh Bắc Kạn;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn RD, xã NH, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12;

Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Đinh Lâm C và bà Hà Thị Q;

Bị cáo có vợ là Hoàng Thị T và 02 con (con lớn sinh năm 1996; con nhỏ sinh năm 1999); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/01/2019, đến ngày 01/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ đó cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đinh Lâm T, sinh năm 1996; Nghề nghiệp: Lao động tự do; (Có mặt); Trú tại: Thôn RD, xã NH, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 23/01/2019, Tổ công tác thuộc đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an huyện CM đang tuần tra kiểm soát tại khu vực cầu SH thuộc thôn SH, xã NH, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang Đinh Lâm V đang điều khiển xe mô tô BKS 97B1-806.91 chở theo sau là Triệu Quang H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine) trên người. Tang vật thu giữ gồm:

Đối với Đinh Lâm V: Tại túi áo khoác bên trái đang mặc trên người của V thu giữ 01 gói nhỏ được gói bằng giấy ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng; 01 chiếc nhãn hiệu SAMSUNG bên trong có thẻ sim có số thuê bao 0343.500.247; 01 chiếc nhãn hiệu IPHONE 5 bên trong có thẻ sim 0378.475.743; số tiền 895.000đ và tạm giữ 01 xe mô tô BKS: 97B1-806.91.

Đối với Triệu Quang H: Tại túi áo khoác bên phải đang mặc trên người của H thu giữ 01 gói nhỏ được gói bằng giấy ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 chiếc điện thoại màu đen nhãn hiệu NOKIA bên trong có thẻ sim có số thuê bao 0337171024.

Trên cơ sở đó ngày 24/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở, công trình phụ cận của Đinh Lâm V và Triệu Quang H. Qua khám xét không phát hiện và thu giữ gì.

Tại Cơ quan điều tra, H và V đều khai nhận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/01/2019, H gọi điện thoại rủ V xuống bến xe khách cũ Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mua ma túy về sử dụng thì được V đồng ý. Sau đó V dùng xe mô tô BKS 97B1-806.91 chở H xuống bến xe khách cũ Thái Nguyên. Đến nơi, H vào trong ngõ mua với một người đàn ông lạ mặt không biết tên, tuổi, địa chỉ một gói ma túy (Heroine) với giá là 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng). Còn V ở ngoài mua của một người đàn ông lạ mặt khác 01 gói ma túy với giá là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi H mua được ma túy quay ra gặp V, cả hai không cho nhau biết về số ma túy của mỗi người đã mua được và đang tàng trữ trên người, rồi V điều khiển xe mô tô chở H về thì bị bắt quả tang.

Tại biên bản mở, đóng niêm phong, cân xác định khối lượng ngày 24/01/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện CM, tỉnh Bắc Kạn xác định 01 gói nhỏ chất bột màu trắng thu giữ tại túi áo khoác bên trái của Đinh Lâm V có khối lượng là 4,625 gam, sau khi cân niêm phong tại phong bì ký hiệu V1 gửi toàn bộ chất bột màu trắng trên đi giám định; 01 gói nhỏ chất bột màu trắng thu giữ tại túi áo khoác bên phải của Triệu Quang H có khối lượng là 8,691 gam, sau khi cân niêm phong tại phong bì ký hiệu H1 gửi toàn bộ chất bột màu trắng trên đi giám định.

Tại kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Kạn số: 36/KTHS-MT, ngày 14/02/2019 kết luận: Các mẫu chất bột màu trắng có trong phong bì kí hiệu H1 gửi giám định là ma túy loại Heroine. Sau khi giám định hoàn trả lại số ma túy (Heroine) còn lại là 8,660 gam được niêm phong trong phong bì ký hiệu T36 cho Cơ quan điều tra Công an huyện CM là tang vật của vụ án.

Tại kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Kạn số: 37/KTHS-MT, ngày 18/02/2019 kết luận: Các mẫu chất bột màu trắng có trong phong bì kí hiệu V1 gửi giám định là ma túy loại Heroine. Sau khi giám định hoàn trả lại số ma túy (Heroine) còn lại là 4,600 gam được niêm phong trong phong bì ký hiệu T37 cho Cơ quan điều tra Công an Huyện Chợ Mới là tang vật của vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm: 4,600 gam số ma túy (Heroine) còn lại sau giám định của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu T37; 01 chiếc nhãn hiệu SAMSUNG bên trong có thẻ sim có số thuê bao 0343500247 và 01 chiếc nhãn hiệu IPHONE 5 bên trong có thẻ sim 0378.475.743 của V; số tiền 895.000đ thu giữ của V được niêm phong trong phong bì ký hiệu V1; 01 phong bì niêm phong ký hiệu V2 bên trong là giấy gói tang vật Đinh Lâm V; 01 phong bì niêm phong ký hiệu H2 bên trong là giấy gói tang vật Triệu Quang H; 8,660 gam số ma túy (Heroine) còn lại sau giám định của Triệu Quang H được niêm phong trong phong bì ký hiệu T36; 01 chiếc điện thoại NOKIA bên trong có thể sim có số thuê bao 0337.171.024 của H. Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự Huyện CM, tỉnh Bắc Kạn.

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 97B1-806.91 do Đinh Lâm V dùng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của Đinh Lâm T (con trai V), khi V lấy xe đi mua ma túy T không biết. Ngày 01/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là anh Đinh Lâm T.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo và những người có quyền lợi liên quan trong vụ án, không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn và việc xử lý vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CM, Viện Kiểm sát nhân dân huyện CM.

Bản cáo trạng số: 19/CT-VKSCM, ngày 16/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện CM, tỉnh Bắc Kạn truy tố bị cáo Triệu Quang H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Truy tố bị cáo Đinh Lâm V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm các vấn đề cụ thể như sau:

* Đề nghị áp dụng:

- Tuyên bố bị cáo Triệu Quang H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

Tuyên bố bị cáo Đinh Lâm V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 42 tháng đến 48 tháng tù.

- Về vật chứng: Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 4,600 gam ma túy (Heroine) được niêm phong trong phong bì ký hiệu T37 và giấy gói tang vật của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu V2; 8,660 gam số ma túy (Heroine) được niêm phong trong phong bì ký hiệu T36 và giấy gói tang vật của Triệu Quang H được niêm phong trong phong bì ký hiệu H2; Thẻ sim số thuê bao 0378.475.743 của bị cáo Đinh Lâm V và thẻ sim có số thuê bao 0337.171.024 của bị cáo Triệu Quang H;

- Trả lại cho bị cáo Đinh Lâm V 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG bên trong có thẻ sim có số thuê bao 0343.500.247;

- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 5 của bị cáo Đinh Lâm V và 01 chiếc điện thoại NOKIA của bị cáo Triệu Quang H;

- Tạm giữ số tiền 895.000đ (Tám trăm chín mươi năm nghìn đồng) của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu V1 để đảm bảo thi hành án.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Các Bị cáo có lời nói sau cùng:

- Bị cáo Triệu Quang H: Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm có cơ hội trở về với gia đình.

- Bị cáo Đinh Lâm V: Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm có cơ hội trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện CM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, Triệu Quang H và Đinh Lâm V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Khoảng 22 giờ 20 phút ngày 23/01/2019, tại thôn SH, xã NH, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn, Đinh Lâm V và Triệu Quang H đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người với mục đích để sử dụng cho bản thân. Cụ thể: Đinh Lâm V tàng trữ 01 gói nhỏ ma túy (Heroine) tại túi áo khoác bên trái đang mặc trên người có trọng lượng: 4,625 gam; Triệu Quang H tàng trữ 01 gói nhỏ ma túy (Heroine) tại túi áo khoác bên phải đang mặc trên người có trọng lượng: 8,691 gam.

[3] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, V không thừa nhận biết được H tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo H khai nhận sau khi cả bị cáo (H và V) đi xe máy xuống bến xe cũ Thái Nguyên, H xuống trước tự mình đi mua ma túy không nói gì với V, còn bị cáo V cũng đi mua ma túy ở địa điểm khác, sau đó V quay lại đón bị cáo H, bị cáo H không nói cho bị cáo V biết việc mình đã mua ma túy và bị cáo V cũng không hỏi bị cáo H có mua được ma túy không, trước đó cả hai cũng không bàn bạc gì về việc mua ma túy. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy, không có cơ sở để kết luận bị cáo V có yếu tố đồng phạm với bị cáo H về số ma túy do bị cáo H tàng trữ trái phép trên người vào ngày 23/01/2019. Xét thấy, mỗi bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy do mình tàng trữ trái phép.

[4] Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo Đinh Lâm V đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Điều luật có nội dung:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

Hành vi của bị cáo Triệu Quang H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Điều luật có nội dung:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;”

[5] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là mối hiểm họa cho cộng đồng, là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, xét thấy cần xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự. Do vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[6] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo. Các bị cáo đều có nhân thân tốt, quá trình sống tại địa phương chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đều thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, do vậy, các bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là“Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, đối với bị cáo Đinh Lâm V có bố đẻ là Đinh Lâm Chư là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì và Huân chương chiến sĩ vẻ vang. Do vậy, bị cáo V được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Sau khi xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, xét thấy, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là nguy hiểm cho xã hội và vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện. Do vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù để có thời gian cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích bán kiếm lời. Hơn nữa theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cho thấy, nghề nghiệp của các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9] Vật chứng của vụ án: Đối với 4,600 gam số ma túy (Heroine) còn lại sau giám định của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu T37 và 8,660 gam số ma túy (Heroine) còn lại sau giám định của Triệu Quang H được niêm phong trong phong bì ký hiệu T36, là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG bên trong có thẻ sim có số thuê bao 0343.500.247 của bị cáo Đinh Lâm V. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, xác định được là điện thoại của bị cáo V, dùng để liên lạc với gia đình. Xét thấy vật chứng không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 5 bên trong có thẻ sim 0378.475.743 của bị cáo Đinh Lâm V và 01 chiếc điện thoại NOKIA bên trong có thể sim có số thuê bao 0337.171.024 của bị cáo Triệu Quang H. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, xác định được là điện thoại của các bị cáo trong vụ án này, do các bị cáo đã sử dụng hai chiếc điện thoại trên để liên lạc với nhau, rủ nhau cùng đi mua ma túy ở Thái Nguyên. Xét thấy, cần tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước.

Đối với số tiền 895.000đ thu giữ của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu V1. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, xác định được là tiền của V vay của bố đẻ là ông Đinh Lâm Chư để đi trả tiền vật liệu làm nhà bếp. Xét thấy vật chứng không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 phong bì niêm phong ký hiệu V2 bên trong là giấy gói tang vật Đinh Lâm V và 01 phong bì niêm phong ký hiệu H2 bên trong là giấy gói tang vật Triệu Quang H là vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 97B1-806.91, Đinh Lâm V dùng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của Đinh Lâm T (con trai V), khi V lấy xe đi mua ma túy T không biết. Ngày 01/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện CM đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 06 bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu là anh Đinh Lâm T. Xét thấy là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Đối với hai người đàn ông bán ma túy cho Đinh Lâm V và Triệu Quang H tại bến xe khách cũ Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, quá trình điều tra không xác định được địa chỉ, nhân thân, lai lịch. Vì vậy, không xem xét xử lý trong vụ án này, xét thấy là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố các bị cáo Đinh Lâm V và Triệu Quang H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Đinh Lâm V 42 tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 24/01/2019 đến ngày 01/02/2019) là 09 ngày. Thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại là 41 tháng 21 ngày tù, thời gian chấp hành án tính từ ngày bị cáo vào Trại để thi hành án.

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Triệu Quang H 06 năm tù, thời gian chấp hành án tính từ ngày tạm giữ (24/01/2019).

3. Về vật chứng: Áp dụng các Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 4,600 gam ma túy (Heroine) được niêm phong trong phong bì ký hiệu T37 và giấy gói tang vật của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu V2; 8,660 gam số ma túy (Heroine) được niêm phong trong phong bì ký hiệu T36 và giấy gói tang vật của Triệu Quang H được niêm phong trong phong bì ký hiệu H2; Thẻ sim số thuê bao 0378.475.743 của bị cáo Đinh Lâm V và thẻ sim có số thuê bao 0337.171.024 của bị cáo Triệu Quang H;

- Trả lại cho bị cáo Đinh Lâm V 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG bên trong có thẻ sim có số thuê bao 0343.500.247;

- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE 5 của bị cáo Đinh Lâm V và 01 chiếc điện thoại NOKIA của bị cáo Triệu Quang H;

- Tạm giữ số tiền 895.000đ (Tám trăm chín mươi năm nghìn đồng) của Đinh Lâm V được niêm phong trong phong bì ký hiệu V1 để đảm bảo thi hành án.

Tất cả tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an Huyện CM và Chi cục Thi hành án dân sự Huyện CM, tỉnh Bắc Kạn ngày 19 tháng 8 năm 2019.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Đinh Lâm V và Triệu Quang H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.”

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo (Triệu Quang H và Đinh Lâm V) và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Đinh Lâm T) có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất