Bản án số 143/2023/HS-ST ngày 04/12/2023 của TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 143/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 143/2023/HS-ST ngày 04/12/2023 của TAND huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Văn Giang (TAND tỉnh Hưng Yên)
Số hiệu: 143/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án: Tuyên bố bị cáo phạm tội "Đánh bạc"
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN\

BẢN ÁN 143/2023/HS-ST NGÀY 04/12/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 134/2023/TLST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2023/QĐXXST-HS ngày 20/11/2023 đối với:

* Bị cáo: Bàn Hữu K, tên gọi khác: Không; sinh năm: 1986 tại huyện N, tỉnh Tuyên Quang; Đăng ký HKTT: Bản N, xã N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bàn Tiến M, sinh năm: 1956 và bà Triệu Thị T, sinh năm: 1957; Có vợ: Triệu Thị T1; sinh năm 1988 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không có; Bàn Hữu K bị tạm giữ từ ngày 15/01/2022 đến ngày 24/01/2022 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Sau khi bị bắt theo Lệnh truy nã, K tiếp tục bị tạm giữ từ ngày 01/11/2023 đến 04/11/2023 chuyển tạm giam. Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Hưng Yên. (Có mặt)

* Người bào chữa cho bị cáo K:

Bà Đỗ Thị H - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H.

Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H - Sở Tư Pháp tỉnh Hưng Yên - Đường A, phường H, thành phố H, tỉnh Hưng Yên. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lường Văn D, sinh năm 1982. (Có mặt)

Địa chỉ: Bản L, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La

2. Anh Lê Hùng C1, sinh năm: 1987. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hưng Yên;

3. Anh Xa Văn T2; Sinh năm 1989. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xóm N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình

4. Anh Nguyễn Bá H1; Sinh năm 1989. (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình

* Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn N, sinh năm: 1965. (Vắng mặt)

Địa chỉ: thôn L, xã V, huyện V, tỉnh Hưng Yên.

2. Anh Phạm Đình T3, sinh năm: 1995. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

3. Anh Lường Văn C2, sinh năm: 2003. (Có mặt)

Địa chỉ: Bản L, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bàn Hữu K, sinh năm 1986 ở bản N, xã N, huyện N, tỉnh Tuyên Quang và Lường Văn D, sinh năm 1982 ở bản L, xã T, huyện V, tỉnh Sơn La; Lê Hùng C1, sinh năm 1978 ở thôn T, xã Đ huyện Y, tỉnh Hưng Yên; Xa Văn T2, sinh năm 1989 ở xóm N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình; Nguyễn Bá H1, sinh năm 1989 ở thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình và anh Phạm Đình T3 sinh năm 1995 ở thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình có mối quan hệ quen biết nhau. Khoảng 21 giờ ngày 15/01/2022, sau khi ăn cơm, uống rượu tại phòng trọ của D (thuê của gia đình ông Trần Văn N, sinh năm 1965 ở thôn Đ, xã V, huyện V), D đã rủ tất cả đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa sát phạt nhau bằng tiền, thì C1, T2, K, H1 đều đồng ý. D lấy tại phòng trọ 01 chiếc đĩa sứ và 01 chiếc bát sứ để trên chiếc chiếu mành vừa ngồi ăn cơm để sử dụng làm công cụ đánh bạc. Lê Hùng C1 lấy chiếc kéo và vỏ bao thuốc lá Thăng L (có một mặt màu vàng, một mặt màu trắng) ở gầm giường của D, dùng kéo cắt vỏ bao thuốc lá thành 04 quân vị hình tròn, đều có đường kính 2cm. Sau đó, K, C1, D, T2, H1 ngồi vào chiếu để đánh bạc; anh T3 không chơi đánh bạc mà ngồi trên giường xem đánh bạc; cháu Lường Văn C2 là con của D thì ngồi ngoài hiên phòng trọ chơi điện tử.

Khi chơi đánh bạc, Lê Hùng C1 làm cái, tất cả những người chơi quy ước với nhau cách thức đánh bạc và tính tiền thắng, thua như sau: Người làm cái đặt 04 quân vị vào đĩa, úp chiếc bát lên rồi xóc, xóc xong thì đặt xuống chiếu để những người còn lại đặt tiền vào cửa chẵn hoặc cửa lẻ (bên phải C1 là cửa chẵn, bên trái C1 là cửa lẻ); mỗi ván bạc, người chơi đặt cửa thấp nhất là 50.000đ, cao nhất là 500.000đ. Sau khi những người chơi đã đặt tiền, người làm cái mở bát ra, nếu có 02 hoặc 04 quân vị cùng màu (trắng hoặc vàng) thì người đặt tiền ở cửa chẵn thắng, người đặt tiền ở cửa lẻ thua; nếu có 03 quân vị cùng màu, 01 quân vị khác màu thì người đặt tiền ở cửa lẻ thắng, người đặt tiền ở cửa chẵn thua. Người thắng được C1 trả số tiền bằng với số tiền đã đặt cửa, người thua bị mất số tiền đặt cửa với C1. Khi đánh bạc, D có 800.000đ, K có 1.200.000đ, C1 có 13.000.000đ, T2 có 5.800.000đ, H1 có 460.000đ, đều sử dụng vào việc đánh bạc. Tất cả đánh bạc đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang. T4 tại chiếu bạc: 01 chiếc bát sứ màu trắng, đường kính 11cm; 01 chiếc đĩa sứ màu trắng có in hình hoa văn màu đỏ, đường kính 15,5cm; 04 quân vị hình tròn, một mặt màu vàng, một mặt màu trắng, đường kính mỗi quân là 2cm; 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 17cm, chuôi bọc nhựa màu đỏ; 01 chiếc chiếu mành loại chiếu đôi và số tiền là 15.260.000đ. Thu trên người của K 1.000.000đ, của T2 5.000.000đ và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SamSung A70.

Trong giai đoạn truy tố thì D và K đã bỏ trốn khỏi địa phương, Viện KSND huyện V đã yêu cầu Cơ quan CSĐT Công an huyện V truy nã. Ngày 12/5/2022, D đến đầu thú tại Cơ quan CSĐT Công an huyện V. Ngày 01/11/2023, K bị bắt theo Lệnh truy nã của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V.

Quá trình điều tra, Bàn Hữu K thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 22/QĐ-VKS-VG ngày 22/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã truy tố Lê Hùng C1, Xa Văn T2, Nguyễn Bá H1 về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tại bản án số 28/2022/HS-ST ngày 23/5/2022, Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã xét xử và quyết định hình phạt đối với Lê Hùng C1, Xa Văn T2, Nguyễn Bá H1 và xử lý vật chứng thu giữ trong vụ án.

Tại bản cáo trạng số 27/QĐ-VKS-VG ngày 30/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã truy tố Lường Văn D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tại bản án số 31/2022/HS-ST ngày 01/7/2022 Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã xét xử và quyết định hình phạt đối với Lường Văn D.

Tại bản cáo trạng số 142/QĐ-VKS-VG ngày 09/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã truy tố Bàn Hữu K về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu, không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Khoản 1 điều 321; điểm s, i khoản 1 điều 51; điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Bàn Hữu K phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Bàn Hữu K từ 09 tháng đến 01 năm tù, được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên căn cứ điều 12, điều 15 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng; Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, i khoản 1 điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên đề nghị HĐXX miễn hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát không đồng ý với quan điểm của ngươi bào chữa về hình phạt chính đối với bị cáo vì bị cáo đã bỏ trốn trong giai đoạn truy tố và bị bắt theo Lệnh truy nã nên không được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

- Cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

- Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Hùng C1, anh Xa Văn T2 và những người làm chứng ông Trần Văn N, anh Phạm Đình T3 vắng mặt. Xét thấy những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án nên Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ khoản 1 điều 292, khoản 1 điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vụ án vắng mặt họ.

[2]. Về hành vi phạm tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 15/01/2022, tại phòng trọ của Lường Văn D ở thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Hưng Yên, Bàn Hữu K và Lường Văn D, Lê Hùng C1, Xa Văn T2, Nguyễn Bá H1 đã đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa được, thua bằng tiền. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 21.260.000đ (Hai mươi mốt triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng). Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự . Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như bản cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá vai trò của bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn. Các đối tượng tham gia đánh bạc đều là tự phát, không có tổ chức, không phân công người canh gác, cảnh giới. Bị cáo cùng các đối tượng tham gia đánh bạc tích cực. Trong số các đối tượng đánh bạc, bị cáo đóng vai trò sau D, C1 và cùng vị trí với T2, H1.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính, an toàn xã hội. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế của bản thân và gia đình, là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn gia đình và phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật khác.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về hình phạt chính: Trong giai đoạn truy tố, bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã nên căn cứ Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao được sửa đổi bổ sung bởi điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì bị cáo thuộc trường hợp không cho hưởng án treo. Do đó, đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về việc cho bị cáo được hưởng án treo là không có căn cứ, HĐXX không chấp nhận. HĐXX thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng thu giữ: Đã được xử lý tại bản án số 28/2022/HS-ST ngày 23/5/2022, Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, nay không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Bị cáo Bàn Hữu K thuộc hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số cư trú ở xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo đề nghị được miễn nộp tiền án phí nên HĐXX căn cứ điểm đ khoản 1 điều 12, điều 15 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Bàn Hữu K.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ vào:

- Khoản 1 điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm i, s khoản 1 điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự;

- Khoản 1 điều 292; Khoản 1 điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố bị cáo Bàn Hữu K phạm tội “Đánh bạc”.

3. Mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Bàn Hữu K 09 (chín) tháng tù. Được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/01/2022 đến ngày 24/01/2022 là 09 ngày, bị cáo còn phải thi hành 08 (tám) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 01/11/2023.

4. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

5. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Bàn Hữu K.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Bàn Hữu K, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất