Bản án số 134/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về tranh chấp ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 134/2019/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 134/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về tranh chấp ly hôn
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Long Xuyên (TAND tỉnh An Giang)
Số hiệu: 134/2019/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/11/2019
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 134/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 220/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 04 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 311/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Mỹ H, sinh năm 1994, cư trú: tổ 2, ấp ML1, xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thái D, sinh năm 1992, cư trú: ấp MH, xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG.

(Bà H, ông D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện, bản khai cùng ngày 27 tháng 03 năm 2019, trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Đỗ Thị Mỹ H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân gia đình: Bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D tự quen biết, tìm hiểu và được gia đình cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới, có đăng kết hôn theo quy định pháp luật thể hiện tại trích lục kết hôn số 94/TLKH-BS ngày 27 tháng 03 năm 2019, đăng ký kết hôn ngày 07 tháng 02 năm 2018 do Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG cấp cho bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D. Trong thời gian sống chung vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cải vả. Nay, bà H không còn tình cảm, yêu thương đối với ông D.

Do đó, bà H yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho bà được ly hôn với ông D.

Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Ngọc An B, sinh ngày 08 tháng 03 năm 2019. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản khai, đơn yêu cầu xin vắng mặt đề cùng ngày 08 tháng 11 năm 2019, ông Nguyễn Thái D trình bày: Năm 2018 ông và bà Đỗ Thị Mỹ H kết hôn, có đăng ký theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG. Trong thời gian sống chung vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên cả vả, ông D đã cố gắn hòa giải tình cảm vợ chồng để tiếp tục sống chung nhưng không đạt được vì bà H cương quyết ly hôn. Nay, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và theo yêu cầu xin ly hôn của bà H, ông D đồng ý.

Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng giữa ông D và bà H có một con chung tên Nguyễn Ngọc An B, sinh ngày 08 tháng 03 năm 2019. Nay bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Theo yêu cầu của bà H, ông D đồng ý giao con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Giữa vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bà Đỗ Thị Mỹ H có đề nghị xét xử vắng mặt theo đơn đề ngày 07 tháng 11 năm 2019 và ông Nguyễn Thái D có đề nghị xét xử vắng mặt theo đơn đề ngày 08 tháng 11 năm 2019 do bận việc đi làm ăn xa, khó khăn trong việc đi lại tham dự tại phiên tòa. Do đó, chủ tọa phiên tòa công bố lý do nguyên đơn bà H và ông D vắng mặt.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách đương sự, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc xét xử, thư ký phiên tòa, sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa. Đối với nguyên đơn bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D cùng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp quy định pháp luật. Về thời hạn chuẩn bị xét xử thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự có trong hồ sơ vụ án: Bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D đăng ký kết hôn năm 2018. Giữa bà H và ông D phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẫn giữa bà H và ông D đi đến trầm trọng. Nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông D là phù hợp quy định tại điều 51, điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung, cháu Nguyễn Ngọc An B (nữ), sinh ngày 08 tháng 03 năm 2019 hiện đang được bà H chăm lo tốt, có nơi ở ổn định, ông D đồng ý giao con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho con chung là phù hợp quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà H được trực tiếp nuôi con chung. Về cấp dưỡng, bà H không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn đề ngày 07 và 08 tháng 11 năm 2019. Căn cứ khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D là phù hợp quy định pháp luật.

[2] Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án: Bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D kết hôn trên cơ sở tự nguyện của cả hai, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG theo giấy trích lục kết hôn (bản sao) số 94/TLKH.ML ngày 27 tháng 03 năm 2019, (ông D và bà H đăng ký kết hôn ngày 07 tháng 02 năm 2018), được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Nay, bà H và ông D phát sinh mâu thuẫn, bà H xin ly hôn nên Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn.

Nguyên nhân, do ông D không quan tâm chăm sóc vợ con, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng đã ly thân. Bản thân bà H và ông D luôn tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông D, ông D đồng ý theo yêu cầu xin ly hôn của bà H.

[4] Xét, hôn nhân giữa bà H và ông D mâu thuẫn phát sinh ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Hiện nay, bà H không còn tình cảm với ông D, không yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ khó khăn trong cuộc sống và chăm lo hạnh phúc gia đình, chăm lo con cái. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông D đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà H. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà H được ly hôn với ông D.

[5] Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Ngọc An B, sinh ngày 08 tháng 03 năm 2019 (nữ). Hiện nay, con chung đang sống ổn định với bà H, được bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt. Việc cháu B sống chung với bà H, ông D thống nhất giao con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng nên chấp nhận yêu cầu của bà H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung, bà H không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét, nếu có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án khác nếu có.

[6] Trong thời gian sống chung vợ chồng, bà H và ông D cùng xác định không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà H nộp tiền án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 8, Điều 9, Khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Khoản 1 Điều 228, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị Mỹ H được ly hôn với ông Nguyễn Thái D.

Về quan hệ con chung: Bà Đỗ Thị Mỹ H và ông Nguyễn Thái D có một con chung tên Nguyễn Ngọc An B, sinh ngày 08 tháng 03 năm 2019 (nữ). Bà Đỗ Thị Mỹ H được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Ông Nguyễn Thái D không cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không yêu cầu. Bà Đỗ Thị Mỹ H phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông Nguyễn Thái D được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con chung không cố định.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Đỗ Thị Mỹ H nộp số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), trừ vào 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002885, ngày 08 tháng 04 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Bà H đã nộp đủ.

Bà Đỗ Thị Mỹ H, ông Nguyễn Thái D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của bà H, ông D.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích Điều 26 Luật thi hành án dân sự).

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất