Bản án số 11/2022/HS-ST ngày 26/07/2022 của TAND huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi về tội chứa mại dâm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 11/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 11/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 11/2022/HS-ST ngày 26/07/2022 của TAND huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi về tội chứa mại dâm |
---|---|
Tội danh: | 254.Tội chứa mại dâm (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tư Nghĩa (TAND tỉnh Quảng Ngãi) |
Số hiệu: | 11/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/07/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯ NGHĨA, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại Hội trường xét xử của Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 15/2022/HSST ngày 10 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: PHAN THỊ H - Sinh ngày 12 tháng 3 năm 1966.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Năng T, xã Nghĩa P, huyện Tư N, tỉnh Quảng Ngãi.
Trình độ học vấn lớp: 12/12; Nghề nghiệp: Nông; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Phan Quảng V và bà Nguyễn Thị T (đã chết); chồng: Huỳnh Văn H; bị cáo có 02 con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 10 tháng 6 năm 2022 cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liện quan:
- Bà Đinh Thị K, sinh năm 1980. Tên gọi khác: P.
Địa chỉ: Thôn Làng D, thị trấn Di L, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
- Bà Đặng Thị V, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Thôn Long H, xã Bình L, huyện Bình S, tỉnh Quảng Ngãi.
- Ông Trần Văn T, sinh năm 1981.
- Ông Lê T, sinh năm 1974.
Cùng địa chỉ: Xã Trà B, huyện Trà B, tỉnh Quảng Ngãi.
- Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Thôn Năng T, xã Nghĩa P, huyện Tư N, tỉnh Quảng Ngãi.
Tại phiên tòa bị cáo Phan Thị H có mặt; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông H có mặt; bà K, bà V có đơn xin xét xử vắng mặt; ông T, ông T vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 13 tháng 02 năm 2022, có Lê T và Trần Văn T đến nhà trọ “Thái B” do Phan Thị H quản lý mục đích để mua dâm. Tại đây, Lê T và Trần Văn T vào gặp Phan Thị H hỏi “có em út không cho vui vẻ tí” (có nghĩa là muốn mua dâm) và gọi bia, nước ra để uống. Nghe vậy, H đồng ý và nói T và T là “có, mấy anh ra phòng tiếp khách chơi đợi tí”. Lúc này, Phan Thị H lấy điện thoại nhãn hiệu, itel màu đen, có số điện thoại 0704677210 gọi vào điện thoại di động của K có số 0384135952 nói K vào bán dâm. Nghe vậy, K đồng ý, và điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 76M1-21806, nhãn hiệu Vision, màu xanh từ thành phố Quảng Ngãi đi vào nhà trọ “Thái B”. Lúc này, H mang bia Tiger, bò húc ra cho T và T. Sau đó, H quay vào lấy đĩa bò khô. Khi quay vào thì H gặp Khai vào tới nhà trọ Thái B nên nói K ra ngồi uống nước với khách nhưng K không đồng ý đi, H nói K vào phòng trọ thứ hai hướng từ Đông sang Tây của nhà trọ trước để chờ khách vào bán dâm. Nghe vây, Khai đồng ý đi vào phòng số 2 trước để đợi khách. H mang đĩa bò khô ra đến nơi, thấy Đặng Thị V đang ngồi nói chuyện với T và T. Thấy vậy, H không nói gì ngồi xuống nói chuyện cùng. Lúc này, T hỏi giá mua dâm hai người là bao nhiêu, V trả lời hai người là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng), thì được T và T đồng ý, T lấy 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) đưa cho Phan Thị H. Sau khi H cầm tiền xong, bỏ tiền vào túi quần, H dẫn Thái chỉ vào phòng của K vào trước đó để mua dâm rồi T với Vân vào phòng thứ nhất của nhà trọ “Thái B” hướng từ Đông sang Tây để mua bán dâm. Sau khi vào phòng T với K quan hệ tình dục, T với V quan hệ tình dục. Đến lúc 16 giờ 00 phút cùng ngày Công an huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi kiểm tra phát hiện 02 (hai) phòng nêu trên đang có hành vi mua bán dâm, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối với Phan Thị H về hành vi chứa mại dâm, đồng thời tiến hành đưa những người có liên quan về Cơ quan Công an để làm việc (BL số 01-04, 134-159, 162-196).
Bản Cáo trạng số: 04/CT-VKSTN-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Phan Thị H về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Kiểm sát viên giữ quyền Công tố tại phiên tòa, phân tích hành vi phạm tội của bị cáo và tính chất của vụ án, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, bị cáo đang bị bệnh tim và chồng bị cáo bị bệnh hen suyễn mãn tính. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự 2015; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phan Thị H mức án từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự, để xử lý.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, của Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi và Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Phan Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 13/02/2022 bị cáo Phan Thị H là người trực tiếp quản lý và điều hành nhà trọ Thái B, ở thôn Năng T, xã Nghĩa P, huyện Tư Nghĩa đã có hành vi cho thuê nhà trọ do mình quản lý để chứa 02 (hai) đôi mua bán dâm trong cùng một khoảng thời gian nhằm thu lợi bất chính với số tiền là 600.000đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Đây là hành vi “chứa mại dâm”.
Hành vi của bị cáo Phan Thị H, bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, truy tố về tội “chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý công cộng, đời sống văn hóa và thuần phong mỹ tục nhất là đối với người phụ nữ, gây bức xúc, bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo và ren đe kẻ khác phạm tội.
[3] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Phan Thị H ở giai đoạn điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năng hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt; bị cáo hiện đang bị bệnh rối loạn chức năng tâm trương thất trái và hở van tim, chồng bị cáo là ông Huỳnh Văn H hiện đang bị bệnh hen suyễn mãn tính. Áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm hình phạt cho bị cáo và không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú theo dõi giáo dục cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo tiến bộ.
[5] Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, phân tích hành vi phạm tội và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị tuyên phạt bị cáo Phan Thị H với mức án từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo là phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
[6] Đối với hai người mua dâm khi bị bắt quả tang khai họ tên là: Ông Trần Văn T, sinh năm 1981và ông Lê T, sinh năm 1974. Qua Điều tra, xác minh của Cơ quan điều tra Công an huyện Tư Nghĩa thì không xác minh được nhân thân, lai lịch của hai người đàn ông trên. Do đó Cơ quan điều tra Công an huyện Tư Nghĩa không xử lý được là có căn cứ.
[7] Đối với hành vi bán dâm của Đinh Thị K và Đặng Thị V, Cơ quan điều tra Công an huyện Tư Nghĩa áp dụng vào khoản 1 Điều 25 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ, đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là có căn cứ.
[8] Đối với ông Huỳnh Văn H (chồng của bị cáo H) là người đại diện hộ kinh doanh nhà trọ “Thái B”, ở thôn Năng T, xã Nghĩa P, huyện Tư Nghĩa. Tuy nhiên, ông H đã ủy quyền cho bị cáo trực tiếp quản lý, sử dụng nhà trọ “Thái B” theo Giấy ủy quyền ngày 03/01/2022 nên không đề cập xử lý đối với ông H là đúng pháp luật.
[9].Vật chứng: Số vật chứng đã thu giữ taị thời điểm phạm tội quả tang, hiện nay Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09 tháng 6 năm 2022, xử lý như sau:
9.1.Trả lại cho bị cáo Phan Thị H:
-01(một) chứng minh nhân dân mang tên Phan Thị H; 01 (một ) điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đen có gắn sim số 0704.677.210 và số tiền 591.000đồng (năm trăm chín mươi mốt nghìn đồng).
9.2.Trả lại cho ông Huỳnh Văn H:
-01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số: 3448004371 đăng ký lần đầu ngày 22/01/2019 mang tên hộ kinh doanh: Huỳnh Văn H.
-01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 màu tím khói không gắn sim.
-02 (hai) camera (loại gắn tường), màu trắng đen trên mỗi camera có in chữ KBONE màu đen, bên trong mỗi camera có gắn thẻ nhớ.
9.3.Trả lại cho bà Đặng Thị V:
-01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ có gắn sim số 0795.508.591 ; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 130 màu đen, có gắn sim số 0373.312.729; số tiền 9.000.000 đồng (chín triệu đồng), 9.4.Trả lại cho bà Đinh Thị K:
-01 (một ) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu đỏ, có gắn 02 sim số 0961.358.374 và 0384.153.952; số tiền mặt 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) và 01 (một) túi xách màu nâu.
9.5.Nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 600.000đồng.
9.6.Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) vỏ bao cao su nhãn hiệu “SURE”, màu đỏ đã bị xé rách một góc; 02 (hai) ruột bao cao su đã qua sử dụng. 09 (chín) bao cao su nhãn hiệu “SURE” chưa qua sử dụng và 02 (hai) bao cao su nhãn hiệu “Superman” chưa qua sử dụng là của Đinh Thị K mang theo để phục vụ cho việc bán dâm.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Thị H, phạm tội“Chứa mại dâm”.
2.Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt: bị cáo Phan Thị H 18 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/7/2022).
Giao bị cáo Phan Thị H cho Uỷ ban nhân dân xã Nghĩa P, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi theo dõi, giám sát, giáo dục bị cáo H trong suốt thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Phan Thị H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Phan Thị H phải chấp hành hình phạt tù của bản án.
3.Án phí: Bị cáo Phan Thị H phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).
4.Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử lý cụ thể như sau:
4.1. Trả lại cho bị cáo Phan Thị H:
-01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Phan Thị H; 01 (một ) điện thoại di động nhãn hiệu itel màu đen có gắn sim số 0704.677.210 và số tiền 591.000 đồng (năm trăm chín mươi mốt nghìn đồng).
4.2 Trả lại cho ông Huỳnh Văn H:
-01 Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số: 3448004371 đăng ký lần đầu ngày 22/01/2019 mang tên hộ kinh doanh: Huỳnh Văn H.
-01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 màu tím khói không gắn sim.
-02 (hai) camera (loại gắn tường), màu trắng đen trên mỗi camera có in chữ KBONE màu đen, bên trong mỗi camera có gắn thẻ nhớ.
4.3.Trả lại cho bà Đặng Thị V:
-01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ có gắn sim số 0795.508.591 ; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 130 màu đen, có gắn sim số 0373.312.729; số tiền 9.000.000 đồng (chín triệu đồng).
4.4.Trả lại cho bà Đinh Thị K:
-01 (một ) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu đỏ, có gắn 02 sim số 0961.358.374 và 0384.153.952; số tiền mặt 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) và 01 (một) túi xách màu nâu.
4.5. Nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 600.000đồng (sáu trăm nghìn đồng).
4.6.Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) vỏ bao cao su nhãn hiệu “SURE”, màu đỏ đã bị xé rách một góc; 02 (hai) ruột bao cao su đã qua sử dụng. 09 (chín) bao cao su nhãn hiệu “SURE” chưa qua sử dụng và 02 (hai) bao cao su nhãn hiệu “Superman” chưa qua sử dụng.
Số vật chứng nêu trên, Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09 tháng 6 năm 2022 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Tư Nghĩa và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tư Nghĩa).
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo này được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!