Bản án số 04/2020/HS-ST ngày 08/01/2020 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 04/2020/HS-ST ngày 08/01/2020 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Dĩ An (TAND tỉnh Bình Dương)
Số hiệu: 04/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/01/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 08/01/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 468/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 483/2019/HSST-QĐ ngày 29 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn M, sinh năm 1984 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 215B/18 khu phố N H 2, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Nhà trọ số 5A, tổ M, khu phố Đ T, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Th, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Ú, sinh năm 1960; bị cáo 01 em ruột, sinh năm 1986; bị cáo có vợ tên là Huỳnh Thị Ngọc Th, sinh năm 1991, có 02 con ruột, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 21/12/2018, bị Chủ tịch UBND phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 21/12/2018; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/9/2019 cho đến nay, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Chí Th, sinh năm 1999; vắng mặt.

2. Ông Lê Tấn Đ, sinh năm 1994; vắng mặt.

3. Bà Huỳnh Thị Ngọc Th1, sinh năm 1996; vắng mặt.

4. Ông Nguyễn Văn Lộc, sinh năm 1990; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn M là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại ma túy M sử dụng là Methamphetamine, M mua ma túy về sử dụng và bán lại cho người nghiện. Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 22/9/2019, Trần Chí Th (tên gọi khác là Đ) là đối tượng nghiện ma túy, Th đi bộ đến khu nhà trọ số 5A , tổ M, khu phố Đ T, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương gặp Lê Văn M hỏi mua 200.000đồng ma túy, M nhận tiền rồi đưa cho Th 01 gói nilon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, Th cất giấu vào túi quần trước bên phải rồi đi ra khỏi dãy trọ của M thì bị lực lượng Công an phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, thấy nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện Th có tàng trữ 01 gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng, Th khai là ma túy mua của Lê Văn M. Sau đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiến hành lệnh khám xét khẩn cấp địa chỉ nhà trọ số 5A, tổ M, khu phố Đ T, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương do Lê Văn M và vợ là Huỳnh Thị Ngọc Th1 thuê trọ. Qua khám xét Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương thu giữ gồm 01 gói nilon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng bỏ trong hộp bánh hiệu Danisa để trên đầu tủ lạnh; 05 gói nilon được hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng bỏ trong hộp gỗ để sát góc tường trên nền gạch trong phòng trọ và 01 bộ sử dụng ma túy đá. Số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A thu giữ là của M mua của tên Ch (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Mục đích mua ma túy là để sử dụng và bán lại cho người nghiện, M vừa bán cho Th 01 gói ma túy thì bị Cơ quan Công an kiểm tra khám xét bắt giữ người cùng tang vật.

- Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá; 01 (một) vỏ hộp bánh hiệu Danisa; 01 hộp bằng gỗ; 01 (một) gói nilon chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Chí Th; 01 (một) gói nilon chứa tinh thể màu trắng và 05 (năm) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Văn M.

Căn cứ Kết luận giám định số: 720/MT-PC09 ngày 27/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận:

- Bì thư thứ nhất được niêm phong (ký hiệu M1) có chữ ký của người bị bắt Trần Chí Thanh, người chứng kiến Lê Tấn Đ, cán bộ niêm phong Nguyễn Tiến Đ hình dấu đỏ của Công an phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương có khối lượng 0,0554 gam loại Methamphetamine.

- Bì thư thứ hai (ký hiệu M2) có chữ ký người bị bắt Lê Văn M, người chứng kiến Nguyễn Văn L và có bộ niêm phong Nguyễn Xuân H bên trong bì thư gồm có: 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2- 1) có khối lượng 1,7622 gam, loại Methamphetamine và 05 (năm) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2-2) có khối lượng 1,2158 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 720/MT-PC09 ngày 27/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với Trần Chí Th, chưa có tiền án, tiền sự, ma túy thu giữ của Th không đủ khối lượng để xử lý hình sự, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã ra quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Đối với bà Huỳnh Thị Ngọc Th1 không biết M tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông tên Ch bán ma túy cho M tại khu vực phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Văn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Văn M từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

* Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Đối với 02 (hai) bì thư niêm phong, chứa ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0137 gam (M1); 1,6064 gam (M2-1) và 0,0305 gam (M2-2), là vật cấm lưu thông nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá; 01 (một) vỏ hộp bánh hiệu Danisa; 01 (một) hộp bằng gỗ, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Buộc bị cáo Lê Văn Minh nộp 200.000 đồng, là tiền thu lợi bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo, người làm chứng và những chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 229/2019, tại nhà trọ số 5A , tổ M, khu phố Đ T, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, bị cáo Lê Văn M đã bán cho Trần Chí Th 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, thời qua khám xét thu giữ tại phòng trọ của M có 06 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, M khai nhận là ma túy, mục đích để sử dụng và bán lại cho đối tượng nghiện để kiếm lời.

Căn cứ Kết luận giám định số: 720/MT-PC09 ngày 27/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

- Bì thư thứ nhất được niêm phong (ký hiệu M1) có chữ ký của người bị bắt Trần Chí Thanh, người chứng kiến Lê Tấn Đ, cán bộ niêm phong Nguyễn Tiến Đ hình dấu đỏ của Công an phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương có khối lượng 0,0554 gam loại Methamphetamine.

- Bì thư thứ hai (ký hiệu M2) có chữ ký người bị bắt Lê Văn M, người chứng kiến Nguyễn Văn Lộc và có bộ niêm phong Nguyễn Xuân H bên trong bì thu gồm có:

01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2 -1) có khối lượng 1,7622 gam, loại Methamphetamine và 05 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2-2) có khối lượng 1,2158 gam, loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Lê Văn M bán 01 lần ma túy cho Trần Chí Th có khối lượng 0,0554 gam loại Methamphetamine, mục đích để thu lợi và có tiền sử dụng ma túy đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, Cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Lê Văn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có tiền tiêu xài và có tiền sử dụng ma túy mà bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã từng bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ma túy là tiền đề của các tội trộm cắp, cướp giật, giết người và nhiều tội phạm khác đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu và nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, nghiện ma túy, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Xét 02 (hai) bì thư niêm phong, chứa ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0137 gam (M1); 1,6064 gam (M2-1) và 0,0305 gam (M2-2), là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá; 01 (một) vỏ hộp bánh hiệu Danisa; 01 (một) hộp bằng gỗ, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Buộc bị cáo Lê Văn M nộp 200.000 đồng, là tiền thu lợi bất chính từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy để sung vào Ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với Trần Chí Th, chưa có tiền án, tiền sự, ma túy thu giữ của Th không đủ định lượng để xử lý hình sự, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã ra quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật; đối với bà Huỳnh Thị Ngọc Th1 không biết M tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý và đối với người đàn ông tên Ch bán ma túy cho M tại khu vực phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Văn M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2019.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bì thư niêm phong chứa ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0137 gam (M1); 1,6064 gam (M2-1) và 1,0305 gam (M2-2); 01 (một) bộ sử dụng ma túy đá; 01 (một) vỏ hộp bánh hiệu Danisa; 01 (một) hộp bằng gỗ.

- Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng để sung vào Ngân sách nước. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/12/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Văn M phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất