Quyết định số 66/2025/DS-GĐT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Quyết định số 66/2025/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Quyết định số 66/2025/DS-GĐT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Quyết định 66/2025/DS-GĐT
Tên Quyết định: | Quyết định số 66/2025/DS-GĐT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Giám đốc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 66/2025/DS-GĐT |
Loại văn bản: | Quyết định |
Ngày ban hành: | 09/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 26/QĐ-VKS-DS ngày 11/02/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2024/DS-PT ngày 19/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị T với bị đơn là cụ Võ Thị T1; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Hoàng S và Sở MT tỉnh Bình Phước. |
Tóm tắt Quyết định
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 66/2025/DS-GĐT
Ngày: 09/4/2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đức Xuân
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Mười
Bà Trần Thị Thu Thủy
Thư ký phiên tòa: Ông Lê Minh Luông - Thẩm tra viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Gia Viễn - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “Tranh
chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1974. Địa chỉ: Tổ *, KP LT,
phường LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
2. Bị đơn: Cụ Võ Thị T1, sinh năm 1933. Địa chỉ: Tổ *, KP LT, phường
LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
Đại diện theo ủy quyền của cụ Võ Thị T1: Bà Lê Thị L, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Tổ *, khu phố CX 2, phường CH, thị xã LB, tỉnh Bình Phước.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trần Hoàng S, sinh năm 1959. Địa chỉ: Khu phố LT, phường LH,
thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
Đại diện theo ủy quyền của ông Trần Hoàng S: Bà Lê Thị L, sinh năm
1960. Địa chỉ: Tổ *, khu phố CX 2, phường CH, thị xã LB, tỉnh Bình Phước.
3.2. Sở MT tỉnh Bình Phước
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn N - Phó Giám đốc Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn, bà Trần Thị T trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà yêu cầu công nhận phần đất có chiều ngang khoảng 1,5m, chiều dài
180m, diện tích là 342m
2
của cạnh Tây Bắc và Đông Bắc nằm trong diện tích
6.433,5m
2
, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại khu phố LT, thị trấn TC,
huyện TC (nay là phường LH, thị xã TC), tỉnh Bình Phước; đất được Ủy ban
nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) huyện TC, tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là GCNQSDĐ) số BK222***, số vào sổ
CH 03*** ngày 10/7/2012 cấp cho bà Võ Thị T1. Do đó bà yêu cầu bà T1 và
ông S trả lại phần đất trên cho bà.
Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông N1, bà T1 (là cha, mẹ ruột của bà)
tặng cho bà năm 1995, đến năm 2011 mới làm hợp đồng tặng cho là thửa đất
128, tờ bản đồ số 3, diện tích 3.326,3m
2
thuộc khu phố LT, thị trấn TC, huyện
TC, tỉnh Bình Phước. Sau khi nhận đất bà xây nhà ở làm hàng rào và trồng cây
trên đất không có yêu cầu cơ quan chuyên môn cắm mốc ranh giới. Khi xây
dựng hàng rào có kết cấu móng xây gạch, khung lưới B40 chiều cao hàng rào
1,8m, chiều ngang xây dựng mặt trước giáp đường Lê Duẩn là 18,7m. Sau đó bà
phát hiện phần đất của mình giáp thửa đất 118 của bà Trần Thị P1 chiều ngang
khoảng 1,5m, chiều dài hết thửa đất thuộc quyền sử dụng đất của bà, nên bà tiếp
tục rào lưới B40 và quản lý sử dụng nên diện tích có chiều ngang 20,2m. Đối
với hàng rào lưới B40 giáp thửa đất 127 thì phần tiếp giáp đường Lê Duẩn bà
xây dựng cố định, còn phần phía sau tiếp giáp với đường đất thửa số 127 bà rào
tạm thời chưa xác định ranh giới.
Nay bà yêu cầu buộc bà Võ Thị T1 và ông Trần Hoàng S trả lại diện tích
đất 342m
2
(ngang 1,9m x dài 180m). Bà đồng ý việc ông Trần Hoàng S trả lại
diện tích đất 137,9m
2
theo cạnh Đông Bắc, còn cạnh Tây Bắc thì ông S phải trả
lại cho bà theo diện tích đo đạc trên sơ đồ đo vẽ.
Bà rút lại toàn bộ yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 30/6/2023 về việc hủy
GCNQSDĐ số DH934***, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
,
tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước do Sở MT tỉnh
Bình Phước cấp ngày 06/10/2022 cho ông Trần Hoàng S. Bà không đồng ý theo
yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng S.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cụ Võ Thị T1 và người đại diện
theo ủy quyền của cụ T1 là bà Lê Thị L trình bày như sau:
Diện tích đất bà T tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của cụ Võ Thị T1,
còn thửa đất của bà T thuộc thửa 128, tờ bản đồ số 3, diện tích là 3.326,3m
2
tọa
lạc tại khu phố LT, phường LH, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số BC
553*** ngày 17/3/2011. Nguồn gốc đất bà T được cấp quyền sử dụng là của cụ
T1 tặng cho. Hai thửa đất của bà T và cụ T1 giáp liền kề, bà T tự rào phần đất có
3
diện tích 283,7m
2
của cụ T1 (phần đất này cụ T1 đã tặng cho ông Trần Hoàng S)
nên phát sinh tranh chấp. Nay cụ T1 không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của
bà T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng S và người đại
diện theo ủy quyền của ông S là bà Lê Thị L trình bày như sau:
Diện tích 283,7m
2
đất bà T đang tranh chấp là thuộc quyền sử dụng đất
đứng tên ông S được cụ Võ Thị T1 tặng cho thuộc một phần thửa đất số 146, tờ
bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, thị xã TC,
tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06/10/2022 do Sở MT
tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S. Do đó, ông S không đồng ý theo
nội dung khởi kiện của bà T.
Ông Trần Hoàng S có yêu cầu độc lập buộc bà T tháo dỡ hàng rào xây (sắt,
cột xi măng), một phần hàng rào lưới B40 và di dời cây trồng trên đất trả lại cho
ông S phần đất bị lấn chiếm diện tích 283,7m
2
nằm trong thửa đất số 146, tờ bản
đồ số 3, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước theo
GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06/10/2022 cấp đứng tên ông Trần Hoàng S.
Ông Trần Hoàng S thừa nhận diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường
đất 4,28m, dài 65,95m) thuộc thửa đất số 128 là thuộc quyền sử dụng đất của bà
T. Do bà T sử dụng rào ranh giới sai không đúng vị trí so với ranh GCNQSDĐ
được cấp và phần đất này ông S cũng không sử dụng nên bà T được quyền điều
chỉnh hàng rào lại cho đúng với ranh, mốc giới theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở MT tỉnh Bình Phước trình bày:
Thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT,
phường LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày
06/10/2022 do Sở MT tình Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S. Việc cấp
GCNQSDĐ đảm bảo đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023, Tòa án nhân
dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước, quyết định (tóm tắt):
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T; Chấp
nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng S.
Buộc bà Trần Thị T tháo dỡ hàng rào kết cấu móng xây gạch, khung lưới
B40, có diện tích 2,736m
2
(chiều ngang 1,52m X chiều cao 1,8m), hàng rào lưới
B40, cột gỗ có chiều cao 1,5m x dài 91,8m và di dời 04 cây giáng hương (trong
đó cây thứ nhất có đường kính 50cm, cây thứ hai đường kính 11cm, cây thứ ba
đường kính 23 cm, cây thứ 4 đường kính 40cm); 01 cây sầu riêng có đường kính
10cm trồng khoảng 02 năm tuổi; 06 cây dừa 06 năm tuổi; 02 bụi chuối để trả lại
cho ông Trần Hoàng S diện tích đất 283,7m
2
và 01 cây phượng nằm trong thửa
4
đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường
LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06 tháng
10 năm 2022 do Sở MT tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S mà hiện
nay bà Trần Thị T đang quản lý sử dụng có sơ đồ đo đạc ngày 04/01/2023 của
Công T1 trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại HT kèm theo.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m) có sơ đồ đo đạc ngày
04/01/2023 của Công T1 trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại HT
kèm theo. Bà Trần Thị T điều chỉnh hàng rào lưới B40 diện tích 137,9m
2
(chiều
ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m) thuộc thửa đất số 128 là quyền sử
dụng đất của bà T cho đúng với ranh giới trên GCNQSDĐ mà không ai ngăn
cản.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 30/62023 của bà Trần Thị T về
việc hủy GCNQSDĐ số DH934***, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích
6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, tỉnh Bình Phước do Sở MT tỉnh
Bình Phước cấp ngày 06 tháng 10 năm 2022 cho ông Trần Hoàng S.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 25/9/2023, bà Trần Thị T có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm, không chấp nhận yêu cầu đốc lập của ông S buộc bà di dời cây trồng và
tài sản trên đất trả cho ông S diện tích 293,7m
2
.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm sự số 71/2024/DS - PT ngày 19/4/2024, Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Phước, quyết định (tóm tắt):
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án
nhân dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước. Cụ thể:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T.
Công nhận quyền quản lý, sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất 283,7m
2
nằm trong thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu
phố LT, phường LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934***
ngày 06 tháng 10 năm 2022 do Sở MT tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần
Hoàng S (có sơ đồ đo đạc được Sở TNMT tỉnh Bình Phước phê duyệt ngày
21/3/2023 kèm theo).
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng S đối với yêu cầu
buộc bà Trần Thị T tháo dỡ hàng rào kết cấu móng xây gạch, khung lưới B40,
có diện tích 2,736m
2
(chiều ngang 1,52m x chiều cao 1,8m), hàng rào lưới B40,
cột gỗ có chiều cao 1,5m x dài 91,8m và di dời 04 cây giáng hương (trong đó
cây thứ nhất có đường kính 50cm, cây thứ hai đường kính 11cm, cây thứ ba
đường kính 23cm, cây thứ 4 đường kính 40cm; 01 cây sầu riêng có đường kính
5
10cm trồng khoảng 02 năm tuổi; 06 cây dừa 06 năm tuổi; 02 bụi chuối để trả lại
cho ông Trần Hoàng S diện tích đất 283,7m
2
và 01 cây phượng nằm trong thửa
đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường
LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06 tháng
10 năm 2022 do Sở MT tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S mà hiện
nay bà Trần Thị T đang quản lý sử dụng (có sơ đồ đo đạc đựợc Sở MT tỉnh Bình
Phước phê duyệt ngày 21/3/2023 kèm theo).
Ông Trần Hoàng S, bà Trần Thị T có trách nhiệm liên hệ với Cơ quan quản
lý đất đai để thực hiện thủ tục thu hồi giấy chứng nhận và xin cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo thực tế sử dụng theo sơ đồ đo đạc được Sở MT tỉnh
Bình Phước phê duyệt ngày 21/3/2023.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m)
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 30/6/2023 của bà Trần Thị T về
việc hủy GCNQSDĐ số DH934***, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích
6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, tỉnh Bình Phước do Sở MT tỉnh
Bình Phước cấp ngày 06 tháng 10 năm 2022 cho ông Trần Hoàng S.
Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn quyết định chi phí tố tụng, về án phí sơ
thẩm, phúc thẩm quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 05/6/2024, ông Trần Hoàng S có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị số 26/QĐ-VKS-DS ngày 11/02/2025, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị
Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2024/DS - PT ngày 19/4/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Phước, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm
nêu trên; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023
của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Nguồn gốc phần đất các bên tranh chấp là của cụ Võ Thị T1 và cụ Trần
Văn N1 (là cha mẹ của bà T và ông S) khai phá năm 1975, diện tích là
12.677,5m
2
tọa lạc tại khu phố LT, thị trấn TC, huyện TC (nay là phường LH,
thị xã TC), tỉnh Bình Phước. Năm 1993, cụ T1 và cụ N1 được cấp GCNQSDĐ.
Đến năm 2011, cụ T1 tặng cho bà T một phần diện tích với chiều dài là 18,7m x
70m, phía Tây giáp đường đất (sau này là đường Lê Duẩn), phía Nam giáp thửa
6
đất số 118, phía Đông và phía Bắc giáp thửa đất còn lại của cụ T1 và cụ N1.
Ngoài ra, cụ T1 và cụ N1 chia cho con của bà T là Trần Thiên P một phần diện
tích đất tiếp giáp với thửa đất đã chia cho bà T về phía Đông (chiều rộng 18,7m,
chiều dài hết đất). Năm 2009, cụ T1 và cụ N1 được Nhà nước đo đạc chính quy
và cấp đổi lại GCNQSDĐ với diện tích là 12.637,5m
2
, thửa đất số 31, tờ bản đồ
số 3, loại đất trồng cây lâu năm; cùng trong năm 2009, cụ N1 bị bệnh chết. Đến
năm 2011, bà T làm hồ sơ đăng ký tách thửa xin cấp GCNQSDĐ, lúc này bà T
làm thủ tục nhập luôn phần diện đất mà cụ T1 và cụ N1 đã tặng cho cháu Trần
Thiên P (con bà T) vào cùng một thửa đất. Ngày 17/3/2011, bà T được cấp
GCNQSDĐ số BC 553964 với thửa đất số 128, tờ bản đồ số 3, diện tích
3.326,3m
2
, chiều ngang đất là 18,7m. Phần diện tích còn lại 9.311,2m
2
, thuộc
thửa 127 do cụ T1 đứng tên quyền sử dụng đất. Sau đó cụ T1 đã làm thủ tục tặng
cho con là ông Trần Hoàng S diện tích 6.433,5m
2
, ông S được Sở MT tỉnh Bình
Phước cấp GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06/10/2022, diện tích 6.433,5m
2
thuộc thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3.
[2] Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự là cụ T1, ông S xác định phần
diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m) thuộc thửa
đất số 128 là thuộc quyền sử dụng đất của bà T. Hiện nay ông S không có sử
dụng phần đất này nên thống nhất để bà T được quyền điều chỉnh hàng rào lại
cho đúng với ranh, mốc trên GCNQSDĐ. Bà T đồng ý rút lại phần yêu cầu khởi
kiện đối với phần diện tích 137,9m
2
nêu trên. Các đương sự hiện chỉ tranh chấp
phần diện tích 283,7m
2
thuộc thửa đất số 127 do cụ Võ Thị T1 tặng cho ông
Trần Hoàng S, ông S đã được cấp lại thửa đất số 146.
[3] Theo hồ sơ đăng ký biến động tách thửa, chuyển quyền sử dụng đất do
UBND huyện TC cung cấp thể hiện: thửa đất số 31, tờ bản đồ số 3, diện tích
được công nhận là 12.637,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, thị trấn TC, huyện TC,
tỉnh Bình Phước là tài sản chung của cụ T1, cụ N1. Năm 2009, cụ N1 chết. Đến
năm 2010,
thửa đất số 31 được tách thành hai thửa gồm thửa số 127, diện tích
9.331,2m
2
và thửa 128, diện tích 3.326,3m
2
. Trên cơ sở Văn bản thỏa thuận của
các đồng thừa kế và văn bản phân chia tài sản thừa kế, cụ Võ Thị T1 được
UBND huyện TC cấp GCNQSDĐ số BK 222*** ngày 10/7/2012 đối với thửa
đất số 127 và bà T được cấp GCNQSDĐ số BC 553964 ngày 17/6/2011 đối với
thửa đất số 128 (cơ sở cấp GCNQSDĐ cho bà T là Hợp đồng tặng cho ngày
01/3/2011 và Biên bản họp gia đình ngày 24/02/2011).
[3.1] Diện tích công nhận cũng như Sơ đồ vị trí đất tranh chấp của hai thửa
đất số 127 và số 128 đều thể hiện tại trang 3 của các GCNQSDĐ, phù hợp với
trích lục địa chính của hai thửa đất, trong đó phần tiếp giáp đường Lê Duẩn của
thửa đất số 128 là 18,7m. Bà T thừa nhận chính bà là người thực hiện việc tách
thửa đất và đăng ký thửa đất số 128. Tuy việc cấp GCNQSDĐ không thực hiện
đo vẽ nhưng ranh giới đã thể hiện rõ trên GCNQSDĐ nhưng bà T cũng không
7
khiếu nại. Điều này, chứng tỏ bà T đã mặc nhiên thừa nhận về ranh giới giữa hai
thửa đất số 127 và số 128 trong Sơ đồ bản vẽ kèm theo GCNQSDĐ nêu trên.
[3.2] Theo Sơ đồ thửa đất kèm theo GCNQSDĐ cấp cho cụ T1 (thửa số
127, sau này là thửa 146 của ông S) và thửa đất số 128 của bà T về hình dạng và
diện tích không thay đổi, phù hợp với Mảnh trích đo địa chính số TA03-2023
của Công T1 TNHH MTV Thương mại HT ngày 04/01/2023 (được Sở MT tỉnh
Bình Phước phê duyệt ngày 21/3/2023).
[3.3] Theo Mảnh trích đo thể hiện: Phần đất cấp cho bà T theo đo đạc giảm
15,9m
2
; phần đất cấp cho ông S giảm 435,2m
2
. Có 283,7m
2
là diện tích thửa đất
số 128 của bà T theo hiện trạng sử dụng chồng lấn thửa đất số 146 của ông S và
có 137,9m
2
là diện tích thửa đất số 146 của ông S theo hiện trạng sử dụng chồng
lấn thửa đất số 128 (phần diện tích này ông S đồng ý trả lại cho bà T, bà T đã rút
phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích đất này). Theo ranh bà T xác định có
226,7m
2
là diện tích ngoài GCNQSDĐ của bà T, diện tích đất này thuộc
GCNQSDĐ của ông S. Cũng theo Mảnh trích đo thì ranh giới theo hàng rào của
bà T là đường gấp khúc khuỷu, không phải là đường thẳng như trong Sơ đồ của
2 GCNQSDĐ đã cấp cho bà T và cụ T1.
[4] Như vậy, bà T khởi kiện cho rằng phần đất tranh chấp là do cụ T1 tặng
cho nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Ngoài ra tại phiên tòa
sơ thẩm ngày 18/9/2023, bà T thừa nhận khi cụ T1 cho đất là đường thẳng,
không phải đường cong trong khi đường rào hiện trạng lại là cong, khi ban đầu
xây bờ tường phía trước có diện tích là 18,7m theo sổ đỏ cấp. Sự thừa nhận của
bà T về việc chiều ngang giáp đường đất (nay là đường Lê Duẩn) 18,7m là phù
hợp với Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất và Mảnh trích đo địa chính. Tuy nhiên, khi
bà T xây dựng hàng rào thì không yêu cầu cơ quan chuyên môn đến xác định vị
trí ranh của thửa đất dẫn đến việc bà T sử dụng sai vị trí đất được cấp
GCNQSDĐ nên khi bà T xây dựng hàng rào kết cấu móng thì có diện tích
1,52m chiều ngang là đất thuộc quyền sử dụng của cụ T1. Sau khi xây dựng
xong hàng rào thì bà T phát hiện 1,52m chiều ngang đường Lê Duẩn giáp thửa
đất 144 của bà P1 (chị gái bà T) nên rào tiếp lưới B40. Vì vậy, chiều ngang thửa
đất của bà T sử dụng thực tế giáp đường Lê Duẩn là 20,22m có sự chênh lệch
chiều ngang 1,52m so với GCNQSDĐ đã cấp cho bà T.
Theo khoản 1 Điều 265 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về “Nghĩa vụ
tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản” và khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định “Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định
theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Điều này phù hợp với quy định tại Điều 171 Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn về hồ sơ địa chính, bản đồ địa chính về mốc giới, ranh giới giữa
các bất động sản. Trên cơ sở ranh giới đã được xác định rõ ràng trong
GCNQSDĐ đã cấp, ông S xác định diện tích 137,9m
2
thuộc thửa 128 của bà T
8
nên đồng ý tách phần diện tích này trả cho bà T là phù hợp. Bả Thủy yêu cầu
công nhận phần đất diện tích 283,7m
2
nằm trong thửa đất số 146 của ông S là
không đúng. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T là có
căn cứ.
[5] Tòa án cấp phúc thẩm nhận định cho rằng việc sử dụng đất của bà T là
ổn định, lâu dài, không ai tranh chấp kể từ năm 1995 đến năm 2021 (khoảng 26
năm) là nhận định chủ quan, không phù hợp với hiện trạng sử dụng đất. Bởi lẽ,
bà T cho rằng bà được cụ T1, cụ N1 tặng cho đất từ năm 1995 nhưng không có
giấy tờ gì chứng minh. Năm 2010, khi thực hiện việc tách thửa đất, bà T mới
được cấp GCNQSDĐ. Về hàng rào trên đất, bà T thừa nhận hàng rào “khúc đầu
xây năm 2007-2008, khúc sau xây năm 2010 sát cây giáng hương khoảng 4
tấc”. Như vậy, về việc xác định ranh giới bằng hàng rào là từ năm 2007, theo bà
T thì đến năm 2010 điều chỉnh lại hàng rào chứ không phải năm 1995. Theo kết
quả xác minh của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
đối với các hộ dân lân cận, sống lâu năm, gần phần đất tranh chấp, xác định: “
Về nguồn gốc đất hơn 12.637,5m
2
là của cụ Trần Văn Ngỡí và cụ Võ Thị T1
khai phá, sử dụng và được cấp quyền sử dụng đất năm 1993. Trong tổng diện
tích này, cụ N1, cụ T1 có chừa phần diện tích chiều ngang mặt tiền đường
khoảng 4m kéo dài từ đường Lê Duẩn đến đường đất. Các hộ dân xác định đây
là phần đường cụ N1, cụ T1 cho các hộ xung quanh đi lại, thông từ đường Lê
Duẩn qua đường đất từ năm 1975 đến nay. Hiện nay, phần đường này vẫn được
sử dụng để qua lại giữa hai con đường cho các hộ xung quanh; Từ khi bà T xây
dựng hàng rào năm 2018, đã lấn sang phần đường đi dân sinh khoảng gần 2m,
làm cho con đường hẹp lại, gây khó khăn cho các phương tiện qua lại giữa hai
con đường". Do đó, về thực trạng sử dụng đất thì đây là phần đường đi kết nối
giữa đường Lê Duẩn với đường đất. Ông S cũng xác nhận phần đường đi này
thuộc sở hữu chung hợp nhất và dành lối đi này để đi lại. Việc bà T lấn sang
phần đất này gây cản trở cho việc đi lại.
[6] Ngoài ra, tại Biên bản hòa giải ngày 31/5/2022 về phần ý kiến trình bày
của cụ T1 (trước khi bà T khởi kiện) thể hiện: đồng ý tách 1,9m hợp với thửa đất
của bà T cho đúng với hiện trạng sử dụng. Tuy nhiên, sau khi thụ lý vụ án, cụ T1
đã trình bày lại ý kiến (thể hiện tại Vi bằng ngày 15/7/2022) và quá trình giải
quyết vụ án, cụ T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T. Việc thay đổi
ý kiến là quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án không thể lấy lời khai trong
giai đoạn tiền tố tụng để làm căn cứ giải quyết vụ án.
[7] Đối với phần nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi sử dụng
thửa đất tranh chấp không đúng vị trí thuộc về bà T, còn Tòa án cấp phúc thẩm
nhận định cho rằng lỗi để sử dụng đất tranh chấp không đúng vị trí thuộc cụ T1
và bà T. Tuy nhiên, đây là vụ án tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất nên
việc sử dụng đất không phải là căn cứ để xác lập quyền (trừ khi việc sử dụng đất

9
được xác lập theo thời hiệu 30 năm). Như đã phân tích trên, đây là vật quyền
được xác lập trên cơ sở Quyết định của Nhà nước (GCNQSDĐ là Quyết định
hành chính cá biệt, trong đó đã thể hiện rõ vị trí, sơ đồ thửa đất), nên không cần
thiết phải xác định lỗi của chủ thể sử dụng đất.
[8] Với các căn cứ đã phân tích trên, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản
án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, không chấp nhận yêu cầu độc
lập của ông S là không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án và có
sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự. Do đó, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án phúc
thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước là có căn cứ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 325; Điều 334; Điều 342; Điều 343 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 26/QĐ-VKS-DS ngày 11/02/2025
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2024/DS-PT ngày
19/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh
Bình Phước về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị T với bị đơn là cụ Võ Thị T1; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Hoàng S và Sở MT tỉnh Bình Phước.
3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết
định./.
Nơi nhận:
- Chánh án TAND cấp cao (để báo cáo);
- Vụ pháp chế và Quản lý khoa học xét xử;
- VKSNDCC
- TAND tỉnh Bình Phước;
- TAND thị xã TC;
- Chi cục THADS thị xã TC;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu Phòng LTHS, HS, THS. (LML).
TM.ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Đức Xuân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
2
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
3
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
4
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
5
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
6
Quyết định số 14/2025/QĐ-PT ngày 04/04/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
7
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
8
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
9
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
10
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
11
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
12
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
13
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
14
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
15
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
16
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
17
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
18
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
19
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm