Quyết định số 66/2025/DS-GĐT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 66/2025/DS-GĐT

Tên Quyết định: Quyết định số 66/2025/DS-GĐT ngày 09/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 66/2025/DS-GĐT
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 09/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 26/QĐ-VKS-DS ngày 11/02/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 71/2024/DS-PT ngày 19/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị T với bị đơn là cụ Võ Thị T1; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Hoàng S và Sở MT tỉnh Bình Phước.
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 66/2025/DS-GĐT
Ngày: 09/4/2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đức Xuân
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Mười
Trần Thị Thu Thủy
Thư ký phiên tòa: Ông Lê Minh Luông - Thẩm tra viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Gia Viễn - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về Tranh
chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đấtgiữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Thị T, sinh m 1974. Địa chỉ: Tổ *, KP LT,
phường LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
2. Bị đơn: Cụ Võ Thị T1, sinh năm 1933. Địa chỉ: Tổ *, KP LT, phường
LH, thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
Đại diện theo ủy quyền của cụ Thị T1: Thị L, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Tổ *, khu phố CX 2, phường CH, thị xã LB, tỉnh Bình Phước.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trần Hoàng S, sinh năm 1959. Địa chỉ: Khu phố LT, phường LH,
thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
Đại diện theo ủy quyền của ông Trần Hoàng S: Thị L, sinh năm
1960. Địa chỉ: Tổ *, khu phố CX 2, phường CH, thị xã LB, tỉnh Bình Phước.
3.2. Sở MT tỉnh Bình Phước
Đại diện theo y quyền: Ông Phạm Văn N - Phó Giám đốc Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn, bà Trần Thị T trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:
yêu cầu công nhận phần đất chiều ngang khoảng 1,5m, chiều dài
180m, diện tích 342m
2
của cạnh Tây Bắc Đông Bắc nằm trong diện tích
6.433,5m
2
, thửa đất số 146, tờ bản đồ s 3, tọa lạc tại khu phố LT, thị trấn TC,
huyện TC (nay phường LH, thị TC), tỉnh Bình Phước; đất được y ban
nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) huyện TC, tỉnh Bình Phước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là GCNQSDĐ) số BK222***, số vào s
CH 03*** ngày 10/7/2012 cấp cho Võ Thị T1. Do đó yêu cầu T1
ông S trả lại phần đất trên cho bà.
Nguồn gốc đất tranh chấp của ông N1, T1 (là cha, mẹ ruột của bà)
tặng cho năm 1995, đến năm 2011 mới làm hợp đồng tặng cho thửa đất
128, tờ bản đồ số 3, diện tích 3.326,3m
2
thuộc khu phố LT, thị trấn TC, huyện
TC, tỉnh Bình Phước. Sau khi nhận đất xây nhà làm hàng rào trồng cây
trên đất không yêu cầu quan chuyên môn cắm mốc ranh giới. Khi xây
dựng hàng o kết cấu móng xây gạch, khung lưới B40 chiều cao hàng o
1,8m, chiều ngang xây dựng mặt trước giáp đường Lê Duẩn là 18,7m. Sau đó bà
phát hiện phần đất của mình giáp thửa đất 118 của Trần Thị P1 chiều ngang
khoảng 1,5m, chiều dài hết thửa đất thuộc quyền sử dụng đất của bà, nên bà tiếp
tục rào lưới B40 quản sử dụng nên diện tích chiều ngang 20,2m. Đối
với hàng rào lưới B40 giáp thửa đất 127 thì phần tiếp giáp đường Duẩn
xây dựng cố định, còn phần phía sau tiếp giáp với đường đất thửa số 127 rào
tạm thời chưa xác định ranh giới.
Nay yêu cầu buộc bà Thị T1 và ông Trần Hoàng S trả lại diện tích
đất 342m
2
(ngang 1,9m x dài 180m). Bà đồng ý việc ông Trần Hoàng S trả lại
diện tích đất 137,9m
2
theo cạnh Đông Bắc, còn cạnh Tây Bắc thì ông S phải trả
lại cho bà theo diện tích đo đạc trên sơ đồ đo vẽ.
rút lại toàn bộ yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 30/6/2023 về việc hủy
GCNQSDĐ số DH934***, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
,
tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, thxã TC, tỉnh Bình Phước do Sở MT tỉnh
Bình Phước cấp ngày 06/10/2022 cho ông Trần Hoàng S. không đồng ý theo
yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng S.
Trong quá trình giải quyết ván, bị đơn cụ Thị T1 người đại diện
theo ủy quyền của cụ T1 là bà Lê Thị L trình bày như sau:
Diện tích đất T tranh chấp thuộc quyền sử dụng của cụ Thị T1,
còn thửa đất của T thuộc thửa 128, tờ bản đồ số 3, diện tích 3.326,3m
2
tọa
lạc tại khu phố LT, phường LH, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ s BC
553*** ngày 17/3/2011. Nguồn gốc đất T được cấp quyền sử dụng của cụ
T1 tặng cho. Hai thửa đất của bà T và cụ T1 giáp liền kề, bà T tự rào phần đất có
3
diện tích 283,7m
2
của cụ T1 (phần đất này cụ T1 đã tặng cho ông Trần Hoàng S)
nên phát sinh tranh chấp. Nay cụ T1 không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của
bà T.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng S người đại
diện theo ủy quyền của ông S là bà Lê Thị L trình bày như sau:
Diện tích 283,7m
2
đất T đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng đất
đứng tên ông S được cụ Thị T1 tặng cho thuộc một phần thửa đất số 146, t
bản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, thịTC,
tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06/10/2022 do Sở MT
tỉnh nh Phước cấp cho ông Trần Hoàng S. Do đó, ông S không đồng ý theo
nội dung khởi kiện của bà T.
Ông Trần Hoàng S có yêu cầu độc lập buộc T tháo dỡ hàng rào xây (sắt,
cột xi măng), một phần hàng rào lưới B40 và di dời cây trồng trên đất trả lại cho
ông S phần đất bị lấn chiếm diện tích 283,7m
2
nằm trong thửa đất số 146, tờ bản
đồ số 3, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, thị TC, tỉnh Bình Phước theo
GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06/10/2022 cấp đứng tên ông Trần Hoàng S.
Ông Trần Hoàng S thừa nhận diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường
đất 4,28m, dài 65,95m) thuộc thửa đất số 128 là thuộc quyền sử dụng đất của bà
T. Do T sử dụng rào ranh giới sai không đúng vị trí so với ranh GCNQSDĐ
được cấp phần đất này ông S cũng không sử dụng nên T được quyền điều
chỉnh hàng rào lại cho đúng với ranh, mốc giới theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở MT tỉnh Bình Phước trình bày:
Thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích 6433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT,
phường LH, thị TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ sDH934*** ngày
06/10/2022 do Sở MT tình Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S. Việc cấp
GCNQSDĐ đảm bảo đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023, Tòa án nhân
dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước, quyết định (tóm tắt):
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T; Chấp
nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng S.
Buộc Trần Thị T tháo dỡ hàng rào kết cấu móng xây gạch, khung lưới
B40, có diện tích 2,736m
2
(chiều ngang 1,52m X chiều cao 1,8m), hàng rào lưới
B40, cột gỗ chiều cao 1,5m x dài 91,8m di dời 04 cây giáng hương (trong
đó cây thứ nhất đường kính 50cm, cây thứ hai đường kính 11cm, cây thứ ba
đường kính 23 cm, cây thứ 4 đường kính 40cm); 01 cây sầu riêng có đường kính
10cm trồng khoảng 02 năm tuổi; 06 cây dừa 06 năm tuổi; 02 bụi chuối để trả lại
cho ông Trần Hoàng S diện tích đất 283,7m
2
01 cây phượng nằm trong thửa
4
đất số 146, tbản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường
LH, thị TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06 tháng
10 năm 2022 do Sở MT tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S hiện
nay Trần Thị T đang quản sử dụng sơ đồ đo đạc ngày 04/01/2023 của
Công T1 trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại HT kèm theo.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Trần Thị T diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m) đồ đo đạc ngày
04/01/2023 của Công T1 trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại HT
kèm theo. Trần Thị T điều chỉnh hàng rào lưới B40 diện tích 137,9m
2
(chiều
ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m) thuộc thửa đất số 128 quyền sử
dụng đất của T cho đúng với ranh giới trên GCNQSDĐ không ai ngăn
cản.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 30/62023 của Trần Thị T về
việc hủy GCNQSDĐ số DH934***, thửa đất số 146, tbản đồ số 3, diện tích
6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, tỉnh Bình Phước do Sở MT tỉnh
Bình Phước cấp ngày 06 tháng 10 năm 2022 cho ông Trần Hoàng S.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 25/9/2023, Trần Thị T đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án
thẩm, không chấp nhận yêu cầu đốc lập của ông S buộc di dời cây trồng
tài sản trên đất trả cho ông S diện tích 293,7m
2
.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm sự số 71/2024/DS - PT ngày 19/4/2024, Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Phước, quyết định (tóm tắt):
Sửa Bản án dân sự thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án
nhân dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước. Cụ thể:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T.
Công nhận quyền quản lý, sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất 283,7m
2
nằm trong thửa đất số 146, tờ bản đồ s3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu
phố LT, phường LH, thị TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ sDH934***
ngày 06 tháng 10 năm 2022 do Sở MT tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần
Hoàng S (có đồ đo đạc được S TNMT tỉnh Bình Phước phê duyệt ngày
21/3/2023 kèm theo).
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng S đối với yêu cầu
buộc Trần Thị T tháo dhàng rào kết cấu móng xây gạch, khung lưới B40,
diện tích 2,736m
2
(chiều ngang 1,52m x chiều cao 1,8m), hàng rào lưới B40,
cột gỗ chiều cao 1,5m x dài 91,8m di dời 04 cây giáng hương (trong đó
cây thứ nhất đường kính 50cm, cây thứ hai đường kính 11cm, cây thứ ba
đường kính 23cm, cây thứ 4 đường kính 40cm; 01 cây sầu riêng đường kính
5
10cm trồng khoảng 02 năm tuổi; 06 cây dừa 06 năm tuổi; 02 bụi chuối để trả lại
cho ông Trần Hoàng S diện tích đất 283,7m
2
01 cây phượng nằm trong thửa
đất số 146, tbản đồ số 3, diện tích 6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường
LH, thị TC, tỉnh Bình Phước theo GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06 tháng
10 năm 2022 do Sở MT tỉnh Bình Phước cấp cho ông Trần Hoàng S hiện
nay bà Trần Thị T đang quản lý sử dụng (có sơ đồ đo đạc đựợc Sở MT tỉnh Bình
Phước phê duyệt ngày 21/3/2023 kèm theo).
Ông Trần Hoàng S, bà Trần Thị T trách nhiệm liên hệ với Cơ quan quản
lý đất đai để thực hiện thủ tục thu hồi giấy chứng nhận và xin cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo thực tế sử dụng theo sơ đồ đo đạc được Sở MT tỉnh
Bình Phước phê duyệt ngày 21/3/2023.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Trần Thị T diện tích 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m)
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện bổ sung ngày 30/6/2023 của Trần Thị T v
việc hủy GCNQSDĐ số DH934***, thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3, diện tích
6.433,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, phường LH, tỉnh Bình Phước do Sở MT tỉnh
Bình Phước cấp ngày 06 tháng 10 năm 2022 cho ông Trần Hoàng S.
Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn quyết định chi phí tố tụng, ván phí
thẩm, phúc thẩm quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 05/6/2024, ông Trần Hoàng S đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị số 26/-VKS-DS ngày 11/02/2025, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị
Bản án dân sphúc thẩm số 71/2024/DS - PT ngày 19/4/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Phước, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự phúc thẩm
nêu trên; giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023
của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh Bình Phước.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Nguồn gốc phần đất các bên tranh chấp của cụ Võ Thị T1 cụ Trần
Văn N1 (là cha mẹ của bà T và ông S) khai phá năm 1975, diện tích
12.677,5m
2
tọa lạc tại khu phố LT, thị trấn TC, huyện TC (nay phường LH,
thị TC), tỉnh Bình Phước. Năm 1993, cụ T1 cụ N1 được cấp GCNQSDĐ.
Đến năm 2011, cụ T1 tặng cho bà T một phần diện tích với chiều dài là 18,7m x
70m, phía Tây giáp đường đất (sau này đường Duẩn), phía Nam giáp thửa
6
đất số 118, phía Đông phía Bắc giáp thửa đất còn lại của cụ T1 cụ N1.
Ngoài ra, cụ T1 cụ N1 chia cho con của T Trần Thiên P một phần diện
tích đất tiếp giáp với thửa đất đã chia cho bà T về phía Đông (chiều rộng 18,7m,
chiều dài hết đất). Năm 2009, cụ T1 và cụ N1 được Nhà nước đo đạc chính quy
cấp đổi lại GCNQSDĐ với diện tích 12.637,5m
2
, thửa đất số 31, tờ bản đồ
số 3, loại đất trồng cây lâu năm; cùng trong năm 2009, cụ N1 bị bệnh chết. Đến
năm 2011, T làm hồ đăng tách thửa xin cấp GCNQSDĐ, lúc này T
làm thủ tục nhập luôn phần diện đất cụ T1 cụ N1 đã tặng cho cháu Trần
Thiên P (con T) vào cùng một thửa đất. Ngày 17/3/2011, T được cấp
GCNQSDĐ số BC 553964 với thửa đất số 128, tờ bản đồ số 3, diện tích
3.326,3m
2
, chiều ngang đất 18,7m. Phần diện tích còn lại 9.311,2m
2
, thuộc
thửa 127 do cụ T1 đứng tên quyền sử dụng đất. Sau đó cụ T1 đã làm thủ tục tặng
cho con ông Trần Hoàng S diện tích 6.433,5m
2
, ông S được Sở MT tỉnh Bình
Phước cấp GCNQSDĐ số DH934*** ngày 06/10/2022, diện tích 6.433,5m
2
thuộc thửa đất số 146, tờ bản đồ số 3.
[2] Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự cụ T1, ông S xác định phần
diện ch 137,9m
2
(chiều ngang giáp đường đất 4,28m, dài 65,95m) thuộc thửa
đất số 128 thuộc quyền sử dụng đất của T. Hiện nay ông S không sử
dụng phần đất này nên thống nhất để T được quyền điều chỉnh hàng rào lại
cho đúng với ranh, mốc trên GCNQSDĐ. T đồng ý rút lại phần yêu cầu khởi
kiện đối với phần diện tích 137,9m
2
nêu trên. Các đương sự hiện chỉ tranh chấp
phần diện tích 283,7m
2
thuộc thửa đất số 127 do cụ Thị T1 tặng cho ông
Trần Hoàng S, ông S đã được cấp lại thửa đất số 146.
[3] Theo hđăng biến động tách thửa, chuyển quyền sử dụng đất do
UBND huyện TC cung cấp thể hiện: thửa đất số 31, tờ bản đồ số 3, diện tích
được công nhận 12.637,5m
2
, tọa lạc tại khu phố LT, thị trấn TC, huyện TC,
tỉnh Bình Phước tài sản chung của cụ T1, cụ N1. Năm 2009, cụ N1 chết. Đến
năm 2010,
thửa đất s 31 được tách thành hai thửa gồm thửa số 127, diện tích
9.331,2m
2
thửa 128, diện tích 3.326,3m
2
. Trên sở Văn bản thỏa thuận của
các đồng thừa kế văn bản phân chia tài sản thừa kế, cụ Thị T1 được
UBND huyện TC cấp GCNQSDĐ số BK 222*** ngày 10/7/2012 đối với thửa
đất số 127 T được cấp GCNQSDĐ số BC 553964 ngày 17/6/2011 đối với
thửa đất số 128 (cơ sở cấp GCNQSDĐ cho T là Hợp đồng tặng cho ngày
01/3/2011 và Biên bản họp gia đình ngày 24/02/2011).
[3.1] Diện tích công nhận cũng như Sơ đồ vị trí đất tranh chấp của hai thửa
đất số 127 số 128 đều thể hiện tại trang 3 của các GCNQSDĐ, phù hợp với
trích lục địa chính của hai thửa đất, trong đó phần tiếp giáp đường Duẩn của
thửa đất số 128 18,7m. T thừa nhận chính bà người thực hiện việc tách
thửa đất đăng ký thửa đất số 128. Tuy việc cấp GCNQSDĐ không thực hiện
đo vẽ nhưng ranh giới đã thể hiện trên GCNQSDĐ nhưng T cũng không
7
khiếu nại. Điều này, chứng tỏ T đã mặc nhiên thừa nhận về ranh giới giữa hai
thửa đất số 127 và số 128 trong Sơ đồ bản vẽ kèm theo GCNQSDĐ nêu trên.
[3.2] Theo đồ thửa đất kèm theo GCNQSDĐ cấp cho cụ T1 (thửa số
127, sau này là thửa 146 của ông S) và thửa đất số 128 của bà T về hình dạng và
diện tích không thay đổi, phù hợp với Mảnh trích đo địa chính số TA03-2023
của Công T1 TNHH MTV Thương mại HT ngày 04/01/2023 (được Sở MT tỉnh
Bình Phước phê duyệt ngày 21/3/2023).
[3.3] Theo Mảnh trích đo thể hiện: Phần đất cấp cho bà T theo đo đạc gim
15,9m
2
; phần đất cấp cho ông S giảm 435,2m
2
. 283,7m
2
diện tích thửa đất
s128 của T theo hiện trạng sử dụng chồng lấn thửa đất số 146 của ông S
có 137,9m
2
là diện tích thửa đất số 146 của ông S theo hiện trạng sử dụng chồng
lấn thửa đất s 128 (phần diện tích này ông S đồng ý trả lại cho bà T, T đã rút
phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích đất này). Theo ranh T xác định có
226,7m
2
là diện tích ngoài GCNQSDĐ của T, diện tích đất này thuộc
GCNQSDĐ của ông S. Cũng theo Mảnh trích đo thì ranh giới theo hàng rào của
T đường gấp khúc khuỷu, không phải đường thẳng như trong đồ của
2 GCNQSDĐ đã cấp cho bà T và cụ T1.
[4] Như vậy, T khởi kiện cho rằng phần đất tranh chấp do cụ T1 tặng
cho nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Ngoài ra tại phiên tòa
thẩm ngày 18/9/2023, T thừa nhận khi cụ T1 cho đất là đường thẳng,
không phải đường cong trong khi đường rào hiện trạng lại cong, khi ban đầu
xây bờ tường phía trước diện tích 18,7m theo sổ đỏ cấp. Sự thừa nhận của
T về việc chiều ngang giáp đường đất (nay đường Duẩn) 18,7m phù
hợp với Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất và Mảnh trích đo địa chính. Tuy nhiên, khi
T xây dựng hàng rào tkhông yêu cầu quan chuyên môn đến xác định vị
trí ranh của thửa đất dẫn đến việc T sử dụng sai vị trí đất được cấp
GCNQSDĐ nên khi T xây dựng hàng rào kết cấu móng thì diện tích
1,52m chiều ngang đất thuộc quyền sử dụng của cụ T1. Sau khi xây dựng
xong hàng rào tT phát hiện 1,52m chiều ngang đường Duẩn giáp thửa
đất 144 của bà P1 (chị gái T) nên rào tiếp lưới B40. Vì vậy, chiều ngang thửa
đất của bà T sử dụng thực tế giáp đường Duẩn 20,22m có schênh lệch
chiều ngang 1,52m so với GCNQSDĐ đã cấp cho bà T.
Theo khoản 1 Điều 265 Bộ luật Dân sự m 2005 quy định về Nghĩa vụ
tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản khoản 1 Điều 175 Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định “Ranh giới giữa các bất động sản liền k được xác định
theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của quan nhà nước thẩm quyền”.
Điều này phù hợp với quy định tại Điều 171 Luật Đất đai năm 2013 các văn
bản hướng dẫn về hồ địa chính, bản đồ địa chính vmốc giới, ranh giới giữa
các bất động sản. Trên sở ranh giới đã được xác định ràng trong
GCNQSDĐ đã cấp, ông S xác định diện tích 137,9m
2
thuộc thửa 128 của T
8
nên đồng ý tách phần diện tích này trả cho T phù hợp. Bả Thủy yêu cầu
công nhận phần đất diện tích 283,7m
2
nằm trong thửa đất số 146 của ông S
không đúng. Bản án thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của T là
căn cứ.
[5] Tòa án cấp phúc thẩm nhận định cho rằng việc sử dụng đất của T
ổn định, lâu dài, không ai tranh chấp ktừ năm 1995 đến năm 2021 (khoảng 26
năm) nhận định chủ quan, không phù hợp với hiện trạng sdụng đất. Bởi lẽ,
T cho rằng được cụ T1, cụ N1 tặng cho đất từ năm 1995 nhưng không
giấy tờ chứng minh. Năm 2010, khi thực hiện việc tách thửa đt, T mới
được cấp GCNQSDĐ. Về hàng rào trên đất, T thừa nhận hàng rào khúc đầu
xây năm 2007-2008, khúc sau xây năm 2010 sát cây giáng hương khoảng 4
tấc”. Như vậy, về việc xác định ranh gii bằng hàng rào là từ năm 2007, theo bà
T thì đến năm 2010 điều chỉnh lại hàng rào chứ không phải năm 1995. Theo kết
quả xác minh của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
đối với các hdân lân cận, sống lâu năm, gần phần đất tranh chấp, xác định:
Về nguồn gốc đất hơn 12.637,5m
2
của cụ Trần Văn Ngỡí cụ Thị T1
khai phá, sử dụng được cp quyền sử dụng đất năm 1993. Trong tổng diện
tích này, cụ N1, cụ T1 chừa phần diện tích chiều ngang mặt tiền đường
khoảng 4m kéo dài từ đường Duẩn đến đường đất. Các hộ dân xác định đây
phần đường cN1, cụ T1 cho các hộ xung quanh đi lại, thông từ đường
Duẩn qua đường đất từ năm 1975 đến nay. Hiện nay, phần đường này vẫn được
sử dụng để qua lại giữa hai con đường cho các hộ xung quanh; Từ khi T xây
dựng hàng rào năm 2018, đã lấn sang phần đường đi n sinh khoảng gần 2m,
làm cho con đường hẹp lại, gây khó khăn cho các phương tiện qua lại giữa hai
con đường". Do đó, về thực trạng sử dụng đất thì đây phần đường đi kết nối
giữa đường Dun với đường đất. Ông S cũng xác nhận phần đường đi này
thuộc sở hữu chung hợp nhất và dành lối đi này để đi lại. Việc bà T lấn sang
phần đất này gây cản trở cho việc đi lại.
[6] Ngoài ra, tại Biên bản hòa giải ngày 31/5/2022 về phần ý kiến trình bày
của cụ T1 (tớc khi bà T khởi kiện) thể hiện: đồng ý tách 1,9m hp với thửa đất
của bà T cho đúng với hiện trạng sử dụng. Tuy nhiên, sau khi thụ lý vụ án, cụ T1
đã trình bày lại ý kiến (thể hiện tại Vi bằng ngày 15/7/2022) quá trình giải
quyết vụ án, cụ T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T. Việc thay đổi
ý kiến quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án không thể lấy lời khai trong
giai đoạn tiền tố tụng để làm căn cứ giải quyết vụ án.
[7] Đối với phần nhận định của Tòa án cấp thẩm xác định lỗi sử dụng
thửa đất tranh chấp không đúng vị trí thuộc về T, còn Tòa án cấp phúc thẩm
nhận định cho rằng lỗi để sử dụng đất tranh chấp không đúng vị trí thuộc cụ T1
T. Tuy nhiên, đây vụ án tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất nên
việc sử dụng đất không phải là căn cứ để xác lập quyền (trừ khi việc sử dụng đất
9
được xác lập theo thời hiệu 30 năm). Như đã phân tích trên, đây vật quyền
được xác lập trên sở Quyết định của Nhà nước (GCNQSDĐ Quyết định
hành chính biệt, trong đó đã thể hiện vị trí, sơ đồ thửa đất), nên không cần
thiết phải xác định lỗi của chủ th s dụng đất.
[8] Với c căn cứ đã phân tích trên, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản
án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, không chấp nhận yêu cầu độc
lập của ông S không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án
sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự. Do đó, Quyết định kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án phúc
thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước là có căn cứ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 325; Điều 334; Điều 342; Điều 343 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 26/-VKS-DS ngày 11/02/2025
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm s 71/2024/DS-PT ngày
19/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 49/2023/DS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân thị TC, tỉnh
Bình Phước về vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với
đất” giữa nguyên đơn Trần Thị T với bị đơn là cụ Thị T1; người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Hoàng S và Sở MT tỉnh Bình Phước.
3. Quyết định giám đốc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết
định./.
Nơi nhận:
- Chánh án TAND cấp cao (để báo cáo);
- Vụ pháp chế và Quản lý khoa học xét xử;
- VKSNDCC
- TAND tỉnh Bình Phước;
- TAND thị xã TC;
- Chi cục THADS thị xã TC;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu Phòng LTHS, HS, THS. (LML).
TM.ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Đức Xuân
Tải về
Quyết định số 66/2025/DS-GĐT Quyết định số 66/2025/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 66/2025/DS-GĐT Quyết định số 66/2025/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất