Quyết định số 25/2024/QĐGĐT-KDTM ngày 10/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thăm dò, khai thác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 25/2024/QĐGĐT-KDTM

Tên Quyết định: Quyết định số 25/2024/QĐGĐT-KDTM ngày 10/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thăm dò, khai thác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thăm dò, khai thác
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 25/2024/QĐGĐT-KDTM
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 10/09/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận kháng nghị số 43/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 01/02/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy bản án Kinh doanh-Thương mại phúc thẩm số 17/2023/KDTM-PT ngày 07/09/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và hủy bản án Kinh doanhThương mại sơ thẩm số 13/2022/KDTM-ST ngày 14/09/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 25/2024/DS-GĐT
Ngày: 10/9/2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đầu tư
quyền khai thác mỏ đất và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán gồm : 10 thành viên tham gia xét xử,
do ông Phan Thanh Tùng, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh làm chủ tọa phiên tòa, theo sự uỷ nhiệm của Chánh án Toà án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thư ký phiên tòa: ông Trịnh Xuân Luyến, Thẩm tra viên chính.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: ông Hà Văn Hừng, Kiểm sát viên.
Ngày 10/09/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh, mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh-thương mại về việc
Tranh chấp hợp đồng đầu quyền khai thác mỏ đất hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”, giữa các đương sự:
1/Nguyên đơn:
Công ty TNHH TH;
Địa chỉ: ấp R, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Văn P, là Giám đốc.
2/Bị đơn:
Công ty TNHH Tư vấn Thiết kế Xây dựng và Dịch vụ Địa ốc B;
Địa chỉ: đường số phường 11, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Ngọc T, là Giám đốc.
3/Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1/Công ty TNHH Tư vấn và Đầu NM;
Địa chỉ: B, phường 24, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 02/03/2022):
2
Bà Trần Thị Uyên T, sinh năm 1972;
Địa chỉ: khu phố , phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2/Công ty TNHH N1;
Địa chỉ: khu công nghiệp H, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền (văn bản quyền ngày 24/03/2022):
Ông Nguyễn Thanh M, sinh năm 1969;
Địa chỉ: X, phường 21, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3/Ông Nguyễn Thái V, sinh năm 1956;
Địa chỉ: 174 đương số 17, phường 11, quận Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh.
3.4/Ông Bùi Thái H, sinh năm 1968;
Địa chỉ: N, phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.5/Ông Nguyễn Văn S , sinh năm 1927;
Địa chỉ: đường số 1, Phường 11, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.6/Ông Vũ Bá D, sinh năm 1957;
Địa chỉ: thôn L, xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn là ng ty TNHH TH, do người đại diện theo ủy quyền ông
Phan Quang Minh, trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:
Công ty TNHH TH (gọi Công ty TH) được phép chuyển mục đích sử
dụng để khai thác đất san lấp, diện tích đất 14,48ha, theo quyết định số
1426/QĐ- UBND ngày 22/05/2006 của Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Long
An.
Công ty TH mua được phần đất có diện tích 97.558,8m
2
và đền bù, htrợ
tài sản, cây trồng cho những hộ dân thi công công trình làm đường, hệ thống
cấp thoát nước.
Trước ngày 24/10/2006, Công ty TH là chủ dự án mỏ đất. Đến ngày
24/10/2006, ông Đỗ Văn Phát, đại diện Công ty TH, chủ sử dụng dự án mỏ,
sở hữu 100% dự án.
Vào ngày 24/10/2006, ng ty TH (bên chuyển nhượng) và công ty TNHH
Tư vấn Thiết kế Xây dựng và Dịch vụ địa ốc Ba Son Pha (gọi là công ty Ba Son
Pha-bên nhận chuyển nhượng)) kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và quyền khai thác đất san lấp (gọi là hợp đồng chuyển nhượng) đối với diện
tích 14,48ha, giá chuyển nhượng là 580.000.000đ/ha, nhưng diện tích chuyển
3
nhượng thực tế là 9,75588ha, tương ứng với số tiền 5.658.410.400 đồng. Sau đó,
công ty Ba Son Pha chỉ thanh toán được 4.250.000.000 đồng, tương ứng với
75,11% giá trị thanh toán.
Sau khi nhận chuyển nhượng, công ty Ba Son Pha lấy toàn bộ phần đất
này, trị giá 5.658.410.400 đồng góp vốn, tương đương với phần giá trị chi phí
đền thu hồi đất tại thời điểm tương ứng với phần vốn góp, 72%; Công ty
TH mức vốn góp 28% tương ứng chi phí đường khai thác, đóng thuế tài
nguyên, chi phí thăm và đánh giá môi trường các công việc quy định tại
Điều 7.1 của hợp đồng. Hai bên ký kết với nhau hợp đồng hợp tác kinh doanh số
02/2006/HTKD-THANH HAU- BASONPHA ngày 24/11/2006 (gọi hợp
đồng hợp tác).
Đến tháng 03/2016, Công ty Ba Son Pha chuyển nhượng toàn bộ dự án cho
công ty TNHH vấn Đầu tư NM (gọi công ty NM), nhưng không thông
báo và không thỏa thuận việc sang nhượng này với Công ty TH và không đề cập
trả 28% quyền lợi, tài sản dán của Công ty TH. Hiện nay công ty NM chuyển
nhượng đất dự án này cho Công ty TNHH N1 (gọi tắt là Công ty N1) với số tiền
66.715.744.000 đồng. Trong đó còn 28% vốn góp của Công ty TH giá trị
phần đất Công ty Ba Son Pha mua chưa được thanh toán tương ứng với số tiền
24,89% vốn góp của Công ty Ba Son Pha chưa được thanh toán.
vậy, Công ty TH yêu cầu Công ty Ba Son Pha, ông Nguyễn Thái V,
Công ty NM, Công ty N1 phải liên đới trả số tiền trên cho Công ty TH 28%
quyền lợi, tài sản trong dự án Hợp đồng hợp tác giữa Công ty TH và Công ty Ba
Son Pha tương ứng với số tiền là 18.680.408.300 đồng và 24,89% (tương đương
tỷ lệ phần đất mua để góp vốn liên doanh chưa thanh toán) trong đó có 72% của
phần quyền lợi, tài sản dự án của Công ty Ba Son Pha trong Hợp đồng hợp tác
tương ứng số tiền 11.955.995.100 đồng. Tổng cộng 30.636.364.000 đồng.
Công ty TH không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thái V.
Bị đơn Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch vụ Địa ốc Ba
Son Pha, do người đại diện theo ủy quyền ông Phạm Ngọc Toản, trình bày ý
kiến như sau:
Công ty TH khởi kiện Công ty Ba Son Pha do ông Nguyễn Thái V m đại
diện theo pháp luật trước đây, còn từ ngày 16/10/2014 đến nay do ông Toản đảm
nhận cách đại diện theo pháp luật. Các phần việc trước đây của Công ty Ba
Son Pha, ông Toản không nhận được sự bàn giao từ ông Việt (cũng như các hồ
4
kinh doanh cũng như hiện tại, ông Toản không nắm giữ con dấu Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty). Trước đây, ông Toản có quen biết
với ông Việt biết ông Việt được 10 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(viết tắt là GCNQSDĐ) tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An dùng để khai thác mỏ
đất nên ông có tham gia chào mời nhà đầu với cách cá nhân thì không
được vì anh em quen biết nên ông Việt đề nghị ông Toản đứng tên với tư cách là
Giám đốc Công ty đtiện việc giao dịch nhưng cũng không thành công. Sau đó
ông Toản trả lại 10 GCNQSDĐ cho ông Việt và cũng không còn nhớ gì đến việc
ông Toản có đứng tên Giám đốc Công ty Ba Son Pha. Trong khoảng thời gian
làm Giám đốc Công ty Ba Son Pha, ông Toản cũng không tham gia kết giao
dịch gì với ai.
Đến năm 2016, ông Việt đàm phán với Công ty NM thì ông Việt báo
cho biết, còn những phần việc trước 2014 thì ông Toản không hề biết không
tham gia; ông Toản cũng không biết ông Đỗ Văn Phát ai. Từ năm 2016, ông
Việt giới thiệu ông Đến để ông Toản hỗ trợ thông tin về đất đai trong 10
GCNQSDĐ để Công ty NM nhận chuyển nhượng đất. Sau đó ông Toản không
được biết thông tin gì thêm.
Vì vậy, Công ty Ba Son Pha không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công
ty TH.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thái V trình bày ý
kiến như sau:
Ngày 24/10/2006, Công ty TH Công ty BaSonPha Hợp đồng chuyển
nhượng đchuyển nhượng 14,48ha đất, với giá 580.000.000đ/ha thành tiền
8.398.400.000 đồng, trong đó chi phí cho việc chuyển quyền sử dụng sang tên
Công ty BaSonPha Giấy phép khai thác mỏ đất do UBND tỉnh Long An cấp
cho Công ty BaSonPha. Trong Hợp đồng quy định thành 02 giai đoạn, giai đoạn
01 03 đợt với tổng cộng số tiền 4.000.000.000 đồng, giai đoạn 02 với số
tiền là 4.398.400.000 đồng, thanh toán từng tháng, trong vòng 06 tháng.
Tuy nhiên, thực tế Công ty TH chỉ mới giao được 10 GCNQSDĐ với diện
tích 97.558,8m
2
x 580.000.000đ/ha = 5.658.410.400 đồng. Quá trình thực hiện,
ông Việt đã thanh toán tổng cộng số tiền 6.934.535.400 đồng theo các Văn bản
số 02 ngày 23/01/2007, Biên bản thanh toán số 08 ngày 30/01/2007, Biên bản
đối chiếu xác nhận vốn đầu ngày 02/5/2007. Ba văn bản này do Công ty
TH cung cấp cho Tòa án.
5
Sau đó Công ty TH không thực hiện đúng nghĩa vụ như không làm thủ tục
để chuyển quyền khai thác mđất, không giao đủ đất nên thực chất giá trị đất
ông Việt nhận chuyển nhượng của Công ty TH là: 300.000.000 đồng x
97.558,8m
2
= 2.926.540.000 đồng nhưng số tiền ông Việt đã thanh toán
6.934.535.400 đồng - 2.926.540.000 đồng = 4.007.995.400 đồng (tương ứng với
19ha).
vậy, ông Nguyễn Thái V không đồng ý yêu cầu khởi kiện của Công ty
TH. Do Hợp đồng hợp tác số 02 hợp đồng giả tạo, tất cả nội dung không
thực, mục đích để cho ng ty BaSonPha khai thác đất san lấp theo cam kết
ngày 01/11/2006. Tất cả việc khai thác kể tngày 24/10/2006 cho đến khi khai
thác xong mỏ đất mà không chịu bất cứ phí tổn nào cho Công ty TH.
Ông Việt có yêu cầu độc lập: Buộc Công ty TH trách nhiệm trả cho ông
số tiền 4.007.995.400 đồng, số tiền này được quy đổi theo giá đất tại thời điểm
giao dịch (210.000.000đ/ha) thành 19ha, tính theo giá trị đất nơi chuyển nhượng
tại thời điểm xét xử là 43.000.000.000 đồng.
Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng hợp tác số 02 ngày 24/11/2006.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty NM, do Trần Thị
Uyên Thu là người đại diện theo uỷ quyền, trình bày ý kiến như sau:
Công ty NM chủ đầu hợp pháp của Dự án Khai thác đất san lấp thuộc
khu vực diện tích 15ha tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An, đã được UBND tỉnh Long An quyết định chủ trương đầu tư, cấp Giấy
phép thăm khoáng sản, cấp Giấy phép khai thác khoáng sản, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất, cho thuê đất cấp GCNQSDĐ để khai thác đất
san lấp. Đồng thời thực hiện mọi nghĩa vtài chính theo quy định pháp luật về
khoáng sản, bảo vệ môi trường, đầu đất đai. Nguồn gốc đất do nhận
chuyển nhượng từ nhân ông Nguyễn Thái V với số tiền 19.000.000.000 đồng
và Công ty NM đã trả đủ tiền cho cá nhân ông Nguyễn Thái V.
Công ty NM đã chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản cho Công ty
N1 Công ty N1 được UBND tỉnh Long An cấp Giấy phép khai thác khoáng
sản số 448/GP-UBND ngày 08/02/2021. Hiện nay, ng ty NM vẫn chủ đầu
của dự án. Việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản phù hợp với
quy định tại Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17/11/2010, Nghị định số
158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ.
6
Do đó, Công ty NM Công ty N1 không liên quan đến việc tranh
chấp Hợp đồng hợp tác và đòi tài sản vốn góp/cổ phần giữa Công ty TH
Công ty BaSonPha. Bởi theo Quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/5/2006
của UBND tỉnh Long An về việc thu hồi khu đất diện tích 82.391m
2
, cho
phép Công ty TH thực hiện chuyển mục đích để khai thác lấy đất san lấp mặt
bằng một số quy định vtrách nhiệm của Công ty TH... Theo Hợp đồng hợp
tác với nội dung hợp tác (Điều 2) cùng liên kết hợp tác kinh doanh thực hiện
việc đầu tư, khai thác kinh doanh lấy đất san lấp tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An, sau đây gọi (Dự án)”; theo (Điều 1) định nghĩa Dự án: “là dự án chuyển
mục đích sử dụng để khai thác lấy đất san lấp theo đó tạo nên việc hợp tác
kinh doanh giữa hai bên để đầu khai thác kinh doanh”; Ngày 24/7/2008,
UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 1909/QĐ-UBND v/v thu hồi
quyết định cho phép Công ty TH khai thác đất tại xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa.
Theo đó, UBND tỉnh Long An thu hồi Quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày
22/5/2006 với do thời hạn khai thác đã hết theo Điều 40 Luật Khoáng sản và
Công ty TH không thực hiện việc khai thác theo quy định (vi phạm khoản 1
Điều 39 Nghị định số 160/2005/NĐ- CP ngày 27/12/2005). Như vậy, đối tượng
hợp tác của Hợp đồng hợp tác số 02 giữa Công ty TH Công ty BaSonPha đã
không còn HỢP ĐỒNG HỢP TÁC số 02 bị chấm dứt hiệu lực theo Điều
12.4. Xét về cấu giá trị vốn góp 28% của Công ty TH trong Hợp đồng hợp
tác kinh doanh (Điều 5.1.1) bao gồm: chi phí làm đường khai thác; đóng thuế tài
nguyên dkiến khai thác; chi phí thăm đánh giá môi trường. Nhận thấy:
Thời hạn khai thác đã hết, đồng thời Công ty TH không thực hiện việc khai thác
theo quy định vi phạm khoản 1 Điều 39 Nghđịnh số 160/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005, nên thu hồi Quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/5/2006. Từ đó
không làm phát sinh đóng thuế tài nguyên, không thực hiện thăm đánh giá
môi trường. Riêng chi phí làm đường khai thác: Khi Công ty NM được cấp Giấy
phép khai thác khoáng sản, thực hiện khai thác vận chuyển đất khai thác thì
xảy ra sự tranh chấp, tranh cản về con đường đi kênh T10, kênh Thầy Cai
giữa 03 Công ty Tấn Lộc, Công ty NM Công ty Nghĩa Phát (do ông Đỗ Văn
Phát đại diện). Sự việc được UBND xã Tân Mỹ đã lập Biên bản ngày 19/4/2019.
Đến khi Công ty NM chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản cho Công ty
N1 thì tiếp tục xảy ra sự tranh cản con đường đi Công ty Cổ phần Thái Vĩnh
Bình cho rằng đã đầu tư, bồi thường, tôn tạo, sửa chữa sử dụng. Sau đó, các
7
bên sự thỏa thuận thống nhất Công ty N1 khi khai thác vận chuyển đất
san lấp sử dụng đường đi thì hỗ trợ, đóng góp cho Công ty Cổ phần Thái
Vĩnh Bình số tiền 2.000.000.000 đồng. Công ty N1 đã thực hiện xong. Như
vậy, việc Công ty TH cho rằng đã bỏ ra chi phí làm đường khai thác là không có
căn cứ nên Công ty NM cho rằng Công ty TH khởi kiện không sở.
vậy Công ty NM không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty TH.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH N1, do ông
Nguyễn Thanh Minh là người đại diện theo uỷ quyền, trình bày ý kiến như sau:
Công ty NM đã được các quan quản nhà nước cấp các giấy phép,
Quyết định cho phép khai thác khoáng sản là đất san lấp tại ấp Lập Điền, xã Tân
Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An như sau:
Quyết định số 4121/QĐ-UBND ngày 11/10/2016 của UBND tỉnh Long An
v/v phê duyệt bổ sung danh mục khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Long An.
Giấy phép thăm khoáng sản số 12/GP-UBND ngày 11/01/2017 của
UBND tỉnh Long An vviệc cho phép Công ty NM được thăm khoáng sn
đất san lấp tại khu vực có diện tích 15ha tại ấp Lập Điền, xã Tân Mỹ, huyện Đức
Hòa được giới hạn bởi các điểm khép góc tọa độ xác định theo phụ lục đính
kèm, và một số quy định khác trong Giấy phép thăm dò khoáng sản.
Quyết định số 1417/QĐ-UBND ngày 20/4/2017 của UBND tỉnh Long An
về việc phê duyệt trữ lượng khoáng sản làm đất san lấp khu vực diện tích
15ha tại ấp Lập Điền, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa. Theo đó, phê duyệt trữ lượng
khoáng sản đất san lấp là 1.563.340m
3
do ng ty NM làm chủ đầu tư.
Quyết định số 721/QĐ-STNMT ngày 16/6/2017 của Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Long An về việc phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và
phương án cải tạo, phục hồi môi trường của dự án công trình mỏ lộ thiên khai
thác đất san lấp tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An của
Công ty NM.
Giấy xác nhận đã quỹ cải tạo, phục hồi môi trường số 71/QBVMT ngày
17/7/2017 của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Long An vviệc xác nhận
Công ty NM đã nộp số tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường, theo quy định.
Văn bản số 2415/CT-KK&KTT ngày 29/9/2017 của Cục Thuế tỉnh Long
An về việc xác nhận hoàn thành nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của
Công ty NM.
8
Giấy phép khai thác khoáng sản số 212/GP-UBND ngày 29/12/2017 của
UBND tỉnh Long An đã cấp cho Công ty NM. Theo đó, cho phép Công ty NM
khai thác đất san lấp bằng phương pháp lộ thiên tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ,
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; diện tích khu vực khai thác 15ha; trữ lượng khai
thác khoáng sản thực tế 1.311.580m
3
; phương pháp khai thác lộ thiên; công suất
khai thác 250.000m
3
/năm; thời gian khai thác là 06 năm.
Quyết định số 86/QĐ-UBND ngày 08/01/2019 của UBND tỉnh Long An
v/v quyết định chủ trương đầu tư cho Công ty NM. Theo đó, chấp thuận nhà đầu
Công ty NM; thực hiện dán đầu khai thác đất san lấp; công suất thiết kế
dự kiến khai thác 250.000m
3
/năm; địa điểm thực hiện dự án: tại ấp Lập Điền, xã
Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; thời gian hoạt động của dự án: 06 năm
kể từ ngày ký quyết định này.
Như vậy, thể khẳng định rằng Công ty NM đầy đsở pháp
chủ đầu của dự án khai thác khoáng sản tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An đúng theo quy định của Luật Khoáng sản, Luật Đầu tư,
Luật Bảo vệ Môi trường; và được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản.
Pháp lý về đất đai của dự án để thực hiện khai thác khoáng sản của Công ty
NM: Công ty NM (chủ đầu tư) đã thực hiện thỏa thuận bồi thường cho người có
quyền sử dụng đất thuộc dự án thông qua hình thức hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và có các quyền sử dụng đất để thực hiện chuyển mục đích sử
dụng từ đất nông nghiệp sang đất khoáng sản như sau:
Hợp đồng chuyển nhượng ngày 23/03/2019 giữa Công ty NM và ông
Nguyễn Thái V. Theo đó, ông Nguyễn Thái V đã chuyển nhượng cho Công ty
NM các thửa đất loại đất nông nghiệp theo các Giấy CN QSDĐ như sau:
GCNQSDĐ số AH 605504, vào sổ cấp giấy số H 02496 do UBND huyện Đức
Hòa cấp ngày 11/12/2006; GCNQSDĐ số AH 353047, vào sổ cấp giấy sH
02475 do UBND huyện Đức Hòa cấp ngày 13/11/2006; GCNQSDĐ số AH
353048, vào sổ cấp giấy số H 02470 do UBND huyện Đức Hòa cấp ngày
10/11/2006; GCNQSDĐ số AH 353050, vào sổ cấp giấy số H 02472 do UBND
huyện Đức Hòa cấp ngày 10/11/2006; GCNQSDĐ số AH 353051, vào sổ cấp
giấy số H 02469 do UBND huyện Đức Hòa cấp ngày 10/11/2006; GCNQSDĐ
số AH 353052, vào sổ cấp giấy số H 02473 do UBND huyện Đức Hòa cấp ngày
10/11/2006; GCNQSDĐ số AH 353053, vào sổ cấp giấy số H 02474 do UBND
huyện Đức Hòa cấp ngày 10/11/2006; GCNQSDĐ số AH 353054, vào sổ cấp
9
giấy số H 02476 do UBND huyện Đức Hòa cấp ngày 13/11/2006 và GCNQSDĐ
số AH 353055, vào sổ cấp giấy số H 02477 do UBND huyện Đức Hòa cấp ngày
13/11/2006.
Ngày 30/11/2020, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Long An Công ty
NM đã Hợp đồng thuê đất số 5360/HĐTĐ. Theo đó, UBND tỉnh Long An
cho Công ty NM thđất với diện tích 31.652m
2
với mục đích sử dụng đất để
sản xuất vật liệu xây dựng (đầu dự án khai thác đất san lấp (đợt 1)); thời gian
thuê đến ngày 08/01/2025. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Long An cấp Giấy
GCNQSDĐ số CY 741010, số vào sổ cấp GCN: CT59847 ngày 01/12/2020.
Vấn đề Công ty N1 nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản t
Công ty NM:
Trên spháp về Luật Khoáng sản, đất đai nêu trên của Công ty NM,
theo quy định của Luật Khoáng sản, Công ty NM đủ điều kiện để chuyển
nhượng quyền khai thác khoáng sản.
Ngày 12/9/2020, giữa Công ty NM và Công ty N1 ký kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền khai thác khoáng sản số 01/2020/NM- NHLA. Theo đó, Công ty
NM chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản theo Giấy phép khai thác
khoáng sản số 212/GP-UBND ngày 29/12/2017 của UBND tỉnh Long An.
Trên sở Hợp đồng chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản
01/2020/NM-NHLA ngày 12/9/2020 và các hồ pháp theo quy định của
Luật Khoáng sản, UBND tỉnh Long An đã cấp Giấy phép khai thác khoáng sản
số 448/GP-UBND ngày 08/02/2021 cho Công ty N1. Hiện nay, Công ty N1
đang thực hiện khai thác đất san lấp theo Giấy phép khai thác khoáng sản số
448/GP-UBND ngày 08/02/2021.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty TH, Công ty N1 ý kiến như sau:
Công ty N1 quyền khai thác khoáng sản hợp pháp được UBND tỉnh Long An
cho phép khai thác đất san lấp thuộc khu vực diện tích 15ha tại ấp Lập Điền,
xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, đồng thời thực hiện mọi nghĩa vụ tài
chính theo quy định pháp luật về Khoáng sản, Bảo vệ môi trường, Đầu tư và Đất
đai. Công ty Ngọc Hương L.A nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản
từ Công ty NM, hai bên cũng đã hoàn thành nghĩa vụ và được UBND tỉnh Long
An cấp Giấy phép khai thác khoáng sản số 448/GP-UBND ngày 08/02/2021.
Hiện nay, Công ty N1 đang thực hiện khai thác đất san lấp theo Giấy phép khai
thác khoáng sản số 448/GP-UBND ngày 08/02/2021. Việc chuyển nhượng
10
quyền khai thác khoáng sản phù hợp với quy định tại Luật Khoáng sản số
60/2010/QH12 ngày 17/11/2010, Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày
29/11/2016 của Chính phủ. Do đó, Công ty N1 không liên quan đến việc
tranh chấp Hợp đồng hợp tác kinh doanh quyền khai thác dự án mỏ đất và đòi tài
sản vốn góp/cổ phần giữa Công ty TH Công ty BaSonPha nên Công ty N1
cho rằng Công ty TH khởi kiện không có cơ sở. Vì vậy, Công ty N1 không đồng
ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TH.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông D trình bày: Ngày
15/9/2014, ông đứng tên thành viên Công ty BaSonPha, ông xác định chỉ
đứng tên hình thức còn tài sản quyền sử dụng đất của 10 sổ đất tại huyện
Đức Hòa tài sản nhân ông Nguyễn Thái V, không liên quan đến ông.
Ông không tranh chấp về quyền sử dụng đất này và ông xin xét xử vắng
mặt.
Người quyền lợi, nghĩa vliên quan ông Nguyễn Văn S trình bày ý
kiến như sau:
Ông cha ruột của ông Nguyễn Thái V. Năm 2004, con ông Nguyễn
Thái V đăng thành lập Công ty TNHH hai thành viên trở lên nên con
ông nhờ ông đng tên là thành viên Công ty BaSonPha, ông chỉ người
đứng tên giùm, n lại tài sản của Nguyễn Thái V, quá trình hoạt động Công
ty thế nào ông không biết. Công ty TH ng ty BaSonPha hợp đồng
chuyển nhượng quyền sdụng đất khai thác nhưng khi sang tên GCNQSDĐ
sang tên cá nhân ông Nguyễn Thái V, ông cũng đồng ý không có ý kiến
tài sản của Công ty cũng do ông Việt đầu tư và chuyển tên cá nhân ông Việt nên
ông không có ý kiến. Ông không có tranh chấp gì trong vụ án và xin xét xử vắng
mặt.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Thái H đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không phản hồi ý kiến gì về việc giải quyết vụ án cho
Tòa án.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại thẩm s 13/2022/KDTM-ST ngày
14/9/2022, Toà án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH TH về việc
“Tranh chấp hợp đồng đầu quyền khai thác mđất & chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” với Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch vụ
Địa ốc B và ông Nguyễn Thái V.
11
Buộc Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch vụ Địa ốc B liên
đới cùng ông Nguyễn Thái V trả cho Công ty TNHH TH số tiền 5.804.330.000
đồng.
Áp dụng Điều 306 Luật Thương mại tính lãi chậm thi hành.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện Công ty TNHH TH về việc “Tranh
chấp hợp đồng đầu quyền khai thác mỏ đất & chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch vụ Địa ốc B.
Ông Nguyễn Thái V, Công ty TNHH Tư vấn và đầu NM, Công ty TNHH Ngọc
Hương L.A với số tiền là 24.832.034.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập đối với ông Nguyễn Thái V về việc yêu
cầu Công ty TNHH TH hoàn trả trị giá đất giao còn thiếu 43.000.000.000
đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chịu chi phí tố
tụng, án phí, quyền kháng cáo, quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
Ngày 22/9/2022, ông Nguyên Thái Việt kháng cáo toàn bộ bản án thẩm,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 24/9/2022, Công ty TH kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại Bản kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 17/2023/KDTM-PT ngày
07/9/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thái V.
Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH TH.
Sửa Bản án thẩm số 13/2022/KDTM-ST ngày 14/9/2022 của Toà án
nhân dân huyện Đức Hòa.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH TH
về việc “Tranh chấp hợp đồng đầu quyền khai thác mỏ đất & chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” với Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng
Dịch vụ Địa ốc B và ông Nguyễn Thái V.
Buộc ng ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch vụ Địa ốc B liên
đới cùng ông Nguyễn Thái V trả cho Công ty TNHH TH số tiền 6.904.600.000
đồng.
12
Kể tngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với c khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi
suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tương ứng với thời gian chậm trả
theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện Công ty TNHH TH về việc “Tranh
chấp hợp đồng đầu quyền khai thác mỏ đất & chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” với Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch vụ Địa ốc B,
ông Nguyễn Thái V, Công ty TNHH vấn đầu NM, Công ty TNHH N1,
cụ thể đối với yêu cầu buộc Công ty TNHH vấn Thiết kế Xây dựng Dịch
vụ Địa ốc B, ông Nguyễn Thái V, Công ty TNHH vấn và đầu tư NM, Công ty
TNHH N1 liên đới trả cho Công ty TNHH TH với tổng số tiền 23.717.926.500
đồng.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập đối với ông Nguyễn Thái V về việc yêu
cầu Công ty TNHH TH hoàn trả giá trị đối với phần diện tích đất giao còn thiếu
với số tiền 43.000.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 12/10/2023, ông Phạm Ngọc Toản ông Nguyễn Thái V đơn đề
nghị giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
17/2023/DS-PT ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Ngày 30/10/2023, Công ty TNHH TH đơn đề nghị giám đốc thẩm đối
với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 17/2023/DS-PT ngày
07/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Tại Quyết định số 43/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 01/02/2024, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị
đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 17/2023/KDTM-PT ngày
07/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy toàn
bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 17/2023/KDTM-PT ngày
07/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án kinh doanh, thương mại
sơ thẩm số 13/2022/KDTM-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức
Hòa, tỉnh Long An, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
13
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh đnghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Tại quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006, y ban nhân dân
dân (UBND) tỉnh Long An thu hồi 38 thửa đất tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ,
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, tổng diện tích đất là 82.391m
2
, giao cho Công ty
TH, để công ty này “…..thực hiện chuyển mục đích đkhai thác lấy đất san lấp
mặt bằng” (Mục 2 Điều 1 của quyết định số 1426/QĐ-UBND).
Điều 2 của quyết định số 1426/QĐ-UBND nói trên những nội dung
chính như sau:
-Phạm vi mốc giới khai thác ngoài thực địa thực hiện khai thác, thực
hiện theo nội dung dự án bản vthiết kế khai thác được Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh Long An thẩm định tại văn bản số 94/QĐ-STNMT-KS ngày
17/04/2004;
-Quy định về trữ lượng đất được khai thác (538.935m
3
), chiều sâu khai thác
(6,5m và 9m), công suất khai thác (400.000m
3
/năm);
-Đất khai thác sẽ được sử dụng phục vụ san nền công ty TNHH TM-DV
Đức Lợi và một số công trình khác tại khu công nghiệp Đức Hòa III;
-Thời hạn khai thác: 18 tháng kể từ ngày ra quyết định.
[2]Sau khi được UBND tỉnh Long An ra quyết định giao đất (quyết định số
số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006), Công ty TH đã kết với công ty Ba
Son Pha những hợp đồng sau đây, liên quan đến phần đất được giao (theo quyết
định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006):
[2.1]Vào ngày 24/10/2006, Công ty TH (bên chuyển nhượng quyền sử
dụng đất & quyền khai thác đất-bên A) và công ty Ba Son Pha (bên nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất & quyền khai thác đất-bên B) kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất quyền khai thác đất trên toàn bộ diện tích
đất 14,48ha tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; nội
dung chính của hợp đồng như sau:
-Bên A chuyển nhượng cho bên B quyền sử dụng đất quyền khai thác
đất trên toàn bộ diện tích đất 14,48ha với giá (14,48ha x 580.000.000 đồng/ha) =
8.398.400.000 đồng;
14
-Những quyền nghĩa vụ khác được hai bên thỏa thuận tại hợp đồng đã
viện dẫn.
[2.2]Vào ngày 24/11/2006, Công ty TH (bên A) công ty Ba Son Pha
(bên B) kết hợp đồng hợp tác kinh doanh; nội dung chính của hợp đồng như
sau:
-Hai bên hợp tác kinh doanh thực hiện việc đầu tư, khai thác kinh doanh
lấy đất san lấp tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (gọi “Dự án”); hai bên cùng
góp vốn đầu dự án, diện tích đất 11,6ha; thời gian khai thác 03 năm (Điều
2; Điều 3)
-Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên như sau: bên A góp 28% (là chi phí làm đường,
đóng thuế tài nguyên, chi phí thăm và đánh giá môi trường); bên B góp 72%
(là tiền mặt cho chi phí đền cho các hộ dân, chi phí thuế, thuế trước bạ, quỹ
khai thác, môi trường…..) (Điều 5).
[3]Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm thụ việc khởi kiện của
Công ty TH đối với công ty Ba Son Pha, xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp Tranh chấp hợp đồng đầu tư quyền khai thác mỏ đất hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Kết quả xét xử là: Tòa án cấp thẩm Tòa án cấp phúc thẩm đều buộc
công ty Ba Son Pha liên đới cùng ông Nguyễn Thái V, trả một số tiền nhất định
cho Công ty TH (Tòa án cấp thẩm buộc trả 5.804.330.000 đồng; Tòa án cấp
phúc thẩm buộc trả 6.904.600.000 đồng) dựa trên việc xác định vốn góp (vào dự
án khai thác mỏ đất tại huyện Đức Hòa nói trên) của mỗi bên đương sự.
[4]Xét thấy, việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm
nói trên, đều chưa có căn cứ pháp luật vì chưa thu thập chứng cứ đầy đủ và chưa
đánh giá đúng về chứng cứ để có thể giải quyết vụ án;
Lý do như sau:
[4.1]Tại quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006, UBND tỉnh
Long An giao cho Công ty TH 38 thửa đất tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An, tổng diện tích đất 82.391m
2
, đ công ty này
“…..thực hiện chuyển mục đích để khai thác lấy đất san lấp mặt bằng” (Khoản 2
Điều 1 của quyết định số 1426/QĐ-UBND); thời hạn khai thác là 18 tháng kể từ
ngày ra quyết định (Tiểu mục 1.1 Mục 2 Điều 2 của quyết định số 1426/QĐ-
UBND).
15
Như vậy, về mặt pháp lý, việc UBND tỉnh Long An giao đất nói trên, cho
Công ty TH, là nhằm để cho công ty này “…..thực hiện chuyển mục đích để khai
thác lấy đất san lấp mặt bằng(cụ thể khai thác đất để phục vụ việc san nền
công ty TNHH TM-DV Đức Lợi một số công trình khác tại khu công nghiệp
Đức Hòa III) trong thời hạn 18 tháng, chiếu theo Luật Khoáng sản năm 1996
(sửa đổi, bổ sung năm 2005), không phải là giao quyền sử dụng đất cho
Công ty TH theo Luật Đất đai năm 2003 (tại phần viện dẫn những căn cứ pháp
lý để ra quyết định số 1426/QĐ-UBND, thì UBND tỉnh Long An cũng đã nêu ra
việc này).
[4.2]Trong thời hạn quyết định số 1426/QĐ-UBND nói trên đang hiệu
lực, thì vào ngày 24/10/2006, Công ty TH kết Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất quyền khai thác đấtđể chuyển nhượng cho công ty Ba
Son Pha toàn bộ 14,48ha đất tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, bao
gồm cả 82.391m
2
đất được giao theo quyết định số 1426/QĐ-UBND nói trên.
Sau khi công ty Ba Son Pha nhận chuyển nhượng đất, đến ngày
24/11/2006, Công ty TH và công ty Ba Son Pha tiếp tục kết Hợp đồng hợp
tác kinh doanh” số 02/2006/HTKD-THANH HAU- BASONPHA, xác định rằng
hai bên sẽ ng p vốn đthực hiện dự án Khai thác kinh doanh, lấy đất để
san lấp các công trình dân dụng công nghiệp đối với 11,6ha đất (là một
phần trong tổng diện tích 14,48ha đất tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ, huyện Đức
Hòa nói trên) trong thời hạn 03 năm (Điều 3 của hợp đồng), đồng thời xác
định rằng bên A (công ty Thành Hâu sẽ góp vốn 28% (bằng chi phí làm đường
khai thác, chi phí thăm dò đánh giá môi trường), bên B (công ty Ba Son Pha)
góp vốn 72% (bằng chi phí đền cho các hộ dân, quỹ khai thác, môi
trường….) (Điều 5 của hợp đồng).
Trong thời gian tiếp sau đó, vào ngày 24/07/2008, UBND tỉnh Long An ra
quyết định số 1909/QĐ-UBND vviệc Thu hồi quyết định cho phép Công ty
TNHH TH khai thác đất tại Tân Mỹ huyện Đức Hòa”. Theo quyết định này,
UBND tỉnh Long An thu hồi quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006 vì
do: Thời hạn khai thác đất đã hết…..và Công ty TH không thực hiện việc
khai thác theo quy định (vi phạm khoản 1 Điều 39 của Nghị định số
160/2005/ND-CP ngày 27/12/2005)”.
16
[4.3]Với những tài liệu, chứng cứ diễn biến của vụ án đã phân tích nói
trên, có đủ căn cứ kết luận rằng những giao dịch giữa Công ty TH công ty Ba
Son Pha là những giao dịch trái pháp luật; lý do như sau:
-Theo quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006 thì Công ty TH chỉ
được UBND tỉnh Long An giao quyền sử dụng đất để khai thác đất, phục vụ cho
việc san lấp mặt bằng “…công ty TNHH TM-DV Đức Lợi một số công trình
khác tại khu công nghiệp Đức Hòa III…”, nhưng sau đó, Công ty TH lại ký kết
hợp đồng để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho công ty Ba Son Pha với tính
cách như người chủ sdụng đất theo Luật Đất đai năm 2003. Tiếp theo sau
đó, vào ngày 24/11/2006, Công ty TH công ty Ba Son Pha lại tiếp tục kết
hợp đồng hợp tác kinh doanh, đương nhiên xem việc thực hiện Dự ánnhư
thực hiện quyền sử dụng được công nhận theo Luật Đất đai năm 2003. Về bản
chất, sự thỏa thuận như vậy giữa hai bên, chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
điều này trái với quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày 22/05/2006 của UBND
tỉnh Long An và trái pháp luật về đất đai;
-Mặc trong tổng diện tích 14,48ha đất tại ấp Lập Điền, Tân Mỹ,
huyện Đức Hòa nói trên, một phần đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho Công ty TH (do công ty nhận chuyển nhượng từ người khác),
nhưng hai bên đương sự đã lợi dụng việc được giao quyền khai thác đất đối với
diện tích 82.391m
2
, để gộp chung thành 14,48ha đất, rồi chuyển nhượng cho
nhau; đây việc làm cố ý tạo sự không rõ ràng nhằm mục đích chuyển nhượng
luôn cả phần đất UBND tỉnh Long An chỉ giao cho Công ty TH được quyền
khai thác đất dùng để san lấp công trình tại địa phương; tương tự giao dịch
giữa hai bên tại hợp đồng hợp tác kinnh doanh ngày 24/11/2006 (dự án thực
hiện 11,6ha đất, nhưng không xác định ràng phần đất nào đươc giao theo
quyết định số 1426/QĐ-UBND, phần đất nào Công ty TH quyền sử dụng
hợp pháp theo Luật Đất đai năm 2003);
-Về thời hạn giao quyền khai thác đất, quyết định số 1426/QĐ-UBND ngày
22/05/2006 chỉ cho phép trong thời hạn 18 tháng, nhưng hai bên đương slại
xác định là Thời hạn lâu dài(Điều 1 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 24/10/2006) hoặc 03 năm (Điều 3 của hợp đồng hợp tác kinh
doanh ngày 24/11/2006).
[5]Tất cả những yếu tkhông đúng pháp luật trong giao dịch giữa Công ty
TH và công ty Ba Son Pha (thể hiện qua hợp đồng ngày 24/10/2006 và hợp đồng
17
ngày 24/11/2006), được dẫn chứng phân tích nói trên, đều chưa được Tòa án
cấp thẩm Tòa án cấp phúc thẩm xem xét đánh giá theo đúng quy định
của pháp luật; việc xem xét đánh giá đúng giao dịch giữa hai bên, ssở
để Tòa án xem xét, đánh giá vnhững giao dịch của những nhân, pháp nhân
liên quan trong vụ án này cũng sở để giải quyết vụ án đúng pháp
luật.
Do đó, việc xét xử của Tòa án cấp thẩm Tòa án cấp phúc thẩm (cùng
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TH) đều chưa đúng pháp
luật.
Khi xét xử lại vụ án, Tòa án cũng cần thiết phải xem xét, đánh giá đúng đắn
vthời hiệu khởi kiện của Công ty TH đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 24/10/2006 hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 24/11/2006
đã ký kết với công ty Ba Son Pha.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 325; Điều 334; Điều 337; Điều 342; Điều 343; Điều 348
Điều 349 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
1/Chấp nhận kháng nghị số 43/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 01/02/2024
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy bản án Kinh doanh-Thương mại phúc thẩm số 17/2023/KDTM-PT
ngày 07/09/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy bản án Kinh doanh-
Thương mại thẩm s13/2022/KDTM-ST ngày 14/09/2022 của Tòa án nhân
dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử vụ án Tranh chấp hợp đồng đầu
quyền khai thác mỏ đất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtgiữa
nguyên đơn Công ty TNHH TH; bị đơn ng ty TNHH vấn-Thiết kế-
Xây dựng và Dịch vụ Địa ốc Ba Son Pha (và những người khác tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác).
2/Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3/Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
18
Nơi nhận:
- Đ/c Chánh án (để báo cáo);
- Vụ pháp chế và quản lý khoa học;
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND tỉnh Long An;
- TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An;
- Chi cục THADS huyện Đức Hòa;
- Các đương sự theo địa chỉ;
- Lưu: Phòng GĐKTII, Phòng LTHS, HS, THS.
TM.ỦY BAN THẨM PHÁN
PHÓ CHÁNH ÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Thanh Tùng
Tải về
Quyết định số 25/2024/QĐGĐT-KDTM Quyết định số 25/2024/QĐGĐT-KDTM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 25/2024/QĐGĐT-KDTM Quyết định số 25/2024/QĐGĐT-KDTM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất