Quyết định số 22/2025/DS-GĐT ngày 24/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 22/2025/DS-GĐT

Tên Quyết định: Quyết định số 22/2025/DS-GĐT ngày 24/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 22/2025/DS-GĐT
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 24/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 192/QĐ-VKS-DS ngày 02/8/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2024/DS-PT ngày 16/4/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 3860/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Phạm Chí Q với bị đơn là ông Lê Quốc S1, bà Ngô Thị Liễu C.
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Quyết định giám đốc thẩm
Số: 22/2025/DS-GĐT
Ngày 24/02/2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán gồm : 10/11 thành viên tham gia xét
xử, do ông Văn Cường - Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh làm chủ tọa phiên tòa.
Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Lí - Thẩm tra viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Mậu Hưng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 24 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử ván dân sự về Tranh
chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Chí Q, sinh năm 1961; Địa chỉ: 18/4, Khu phố
3, phường AK, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Công ty Luật TNHH MTV ABP; Trụ sở: 513,
đường HVN, phường BL, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh Đ; Địa chỉ: 513, đường
HVN, phường BL, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai (Theo Văn bản ủy quyền ngày
01/8/2022, ngày 24/8/2023).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Lê Quốc S1, sinh năm 1961;
2.2. Bà Ngô Thị Liễu C, sinh năm 1963;
Cùng địa chỉ: 169/46, đường LĐC, Khu phố 3, phường BA (nay
phường AK), thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân thành phố , Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ:
2
168, đường TVB, phường TML, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn U (Theo Văn bản ủy
quyền số 2996/GUQ-UBND ngày 05/6/2023).
3.2. Ủy ban nhân dân phường AK, thành phố , Thành phố Hồ Chí
Minh; Địa chỉ: 1, đường LĐC, phường AK, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trầm Thuận H1 (Theo Văn bản ủy
quyền số 11/GUQ-UBND ngày 05/9/2023).
3.3. Ông Ngô Trung H2;
3.4. Ông Ngô Thế D;
Cùng địa chỉ: 19, Đường số 8, phường AK, thành phố , Thành phố Hồ
Chí Minh.
3.5. Nguyễn Thị S2; Địa chỉ: 21/3A, đường LĐC, phường AK, thành
phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.6. Ông Đặng Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1974;
3.7. Bà Hồ Lệ A, sinh năm 1977;
Cùng địa chỉ: 1A, đường TN, phường AK, thành phố TĐ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
3.8. H kinh doanh Quán 1A; Tr sở: 1A, đường TN, phường AK, thành ph
, Tnh phố HChí Minh. Ni đại din: N Th Liễu C.
4. Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Huy T, sinh năm 1942; Địa chỉ: 543/84, đường NĐC,
Phường H, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh;
2. Ông N Trung N1, sinh năm 1971; Địa chỉ: Căn hộ 8.10 B4 chung
TP, NHT, PK, huyện NB, Tnh phố Hồ CMinh;
3. Nguyễn Thị Thu N2, sinh năm 1973; Địa chỉ: 27/14, đường NĐK,
phường B, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Phạm Chí Q người đại diện theo ủy quyền ông
Nguyễn Minh Đ trình bày:
Nguyên đơn ông Phạm Chí Q cung cấp tài liệu, chứng cứ và xác định ông
Q người quản lý, sử dụng hợp pháp đối với phần đất diện tích 221,1 m
2
thuộc
thửa số 64, tbản đồ số 26 (theo bản đồ địa chính năm 2002) tọa lạc tại phường
AK, thành phố TĐ. Phần đất này trước đây một phần thửa s498, tbản đồ
số 1, xã AK, huyện cũ.
3
Diện tích thay đổi theo Bản đồ đo vẽ hiện trạng ngày 16/5/2023 của
Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí
Minh là 227,4 m
2
, trong đó phần nằm trong lộ giới là 138,3m
2
; phần không Tuộc
phạm vi l giới 89,1m
2
. Chứng thư thẩm định giá số 2510723/CT-TV do
Công ty cổ phần định giá đầu kinh doanh bất động sản TV cấp lần 1 ngày
21/07/2023 đã mô tả thực địa khu đất. Do đó, ông Q xác định diện tích đất
thực tế quản sử dụng 227,4 m
2
yêu cầu công nhận cho ông được quyền
sử dụng hợp pháp đối với phần đất trên với các lý do sau:
- Về nguồn gốc khu đất: Năm 1982, Tổ phụ lão AK đăng ruộng đất
theo Chỉ thị 299/TTg diện tích 8.145m
2
thuộc thửa 498, tbản đsố 1, AK.
Sau đó, Tập đoàn giao khoán cho Nguyễn Thị N sử dụng diện tích 6.500 m
2
.
N và ông Q hai lần hoán đổi đất cho nhau. Sau hoán đổi, ông Q diện
tích tổng cộng là 6000m
2
, trong đó có 2000m
2
vị trí thuộc 1 phần thửa số 498, t
bản đồ số 1, xã AK, huyện TĐ. Cụ thể:
+ Lần 1: Nhận hoán đổi vào ngày 10/10/1988 diện tích 2000m
2
theo Giấy
tờ hoán đổi có ghi rõ: Bà N đổi phần đất nông nghiệp diện tích 2000m
2
có vị trí
thuộc 1 phần Thửa số 498, Tờ bản đồ số 1, AK, huyện cho ông Q, theo
đó Bà N lấy phần đất nông nghiệp diện tích 2000m
2
của ông Q ở đê Vàm Cá Trê
Lớn”. Việc hoán đổi được Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thời điểm này xác
nhận. Sau đó, đến ngày 02/5/1990 ông Q đơn xin chuyển diện tích đất 2000
m
2
tại vị trí thửa đất như trên sang trồng cây ăn trái và được Ủy ban nhân dân
AK chấp thuận ngày 04/05/1990;
+ Lần 2: Nhận hoán đổi vào ngày 05/04/1991 với diện tích 4000m
2
theo
Giấy hoán đổi đất cũng đã ghi N đổi phần đất nông nghiệp diện tích
4000 m
2
vị trí (ngã tư khu xá) cho ông Q, theo đó N lấy phần đất nông
nghiệp diện tích 4000 m
2
của ông Q đê Vàm Trê Lớn”. Việc đổi đất này
cũng được Ủy ban nhân dân xã AK chấp thuận ngày 08/04/1991.
Sau khi hoán đổi đất, trên phần 2000m
2
ông Q được cấp phần đất 100m
2
để
y dựng nhà theo Giấy giao đất số 1061/GGĐ ngày 23/11/1991 và được cấp phép
khởi công y dựng theo Giấy phép khởi công y dựng số 1834/GPKC ngày
23/04/1993 Giấy phép xây dựng số 450/GPXD ngày 02/7/1996, diện ch y
dựng 364 m
2
số 7/9 đường TN, đã n cho Nguyễn ThK ngày 23/11/1996.
Ông Q quá trình s dụng ổn định, u dài, hợp pp khu đất y. Ny
02/5/1990, ông Q đơn xin chuyển đổi sang đất y trồng đã được Uỷ ban
chấp thuận. Phần đấtn lại là đất trồng yu năm (bao gồm cả phần đất đang có
tranh chấp) phù hợp hiện trạng quản lý đất đai địa phương ttrước đến nay.
- Về quá trình quản lý, sử dụng đất: Phần đất tranh chấp nằm trong phần
diện tích đất ông Q hoán đổi với N, vị trí xác định thuộc một phần thửa số
498, tbản đồ số 1, AK, huyện nay thuộc thửa số 64, tbản đồ số 26
(theo bản đồ địa chính năm 2002) thuộc phường AK, thành phố sau khi trừ
4
phần diện tích 100m
2
đất xây dựng nhà của căn nhà 7/9, đường TN ông Q đã
bán cho bà K năm 1996.
Qua quá trình giải quyết khiếu kiện kéo dài nhiều năm giữa các bên và q
trình tiếp cận chứng cứ tại Tòa án: Ông Q biết việc ngày 16/7/1992 Ủy ban
nhân dân huyện Quyết định số 487/-UB thu hồi 7.645m
2
đất thuộc
khu vực thửa đất 498, tờ bản đồ số 01, xã AK, huyện. Tuy nhiên, trên thực tế
ông Q vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng đến năm 1999 thì cho ông Ngô Trung H2
mượn và xảy ra sự tranh chấp với ông S1, bà C.
Năm 1999, ông Q có cho bn tn là ông H2 mượn phn đất này nhưng thc
tế, ông H2 mượn đất là để ông N Triệu P (em ruột) s dụng m mt bằng sở
đúc nắp cống,ng bi cống. Sau đó, được khoảng hơn 02 năm thì ông P bị tai nạn xe
chết. Phần din tích đất này ông H2 để ông N Thế D (anh ruột) s dụngm quán
cà phê. Ông D ông S1 (anh rể), bà C (em rut) nhà đt sát cnh quán cà phê. Hai
bên mâu thuẫn n ông D kinh doanh đưc khoảng 04 tháng thì bỏ quán. Theo
ông D trình bày t C cho ông D mượn tiền m quán phê nói trên. Khi ông D
b quán, ông S1, C chiếm giữ, khai thác kinh doanh đối với mặt bằng y. Ông
H2 biết việc ông D bỏ qn vợ chồng bà C tiếp tc kinh doanh trên đt mượn ca
ông Q. Ông đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng C trlại đất nhưng v chồng C
không tr. Ông S1 nhiều lần gặp ông để đề nghị ông bán lại diện tích đt này nng
ông Q không đồng ý. m 2013, ông Q kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyn sử
dng đt thì được biết ông S1 ng nộp hồ xin cấp giấy chứng nhn quyn sử
dụng đối với phần đất. Vì vậy, ông Q đã nộp đơn khiếu nại ra Ủy ban nhân dân
phường BA đ đòi lại phần đt y.
c quan nhàớc vn c định nguồn gốc diện tích đất này của ông Q
không bất cứ Quyết định thu hồi đất, xử phạt, ỡng chế, lập hồ kiểm
bồi thường . Nội dung xác minh đề cập trong Quyết định 1849/-UBND-
TNMT ny 30/5/2016 đã ghi nhận việc ông Q sử dụng phần đất trên tm 1999.
Ny 05/11/2018, Ủy ban nhân n phường BA (nay phường AK) đã lấy ý
kiến của các hộ dân lâu m về nguồn gốc khu đất và đã có niêm yết công khai tại
địa phương theo Thông o số 133/UBND ngày 06/11/2018. c hộ n y đều
c định nguồn gốc đất của ông Q sự việc ông Q sử dụng đến năm 1999 thì
cho ông H2 mượn đất. ng theo kết quả Phiếu lấy ý kiến của khu dân ngày
14/12/2018 đối với các hộ n và được niêm yết công khai theo Thông báo số 146
ngày 14/12/2018. Đến ngày 03/01/2019 thì Thông báo số 01/TB-UBND đề ngày
03/01/2019 kết thúc việc niêm yết kết quảc minh nguồn gốc đất đối với phần đất
tranh chấp. Ngày 08/01/2019, Phòng i nguyên Môi trường Qun đã o
o số 09/BC-TNMT, u rõ: Việc ông S1, C cho rằng khai diện tích đất
221,1m
2
theo Quyết định số 3376/QĐ-UB-QT ngày 11/9/1999 không
sở. Phòng i Nguyên Môi Trường khẳng định nguồn gốc đất của ông Q
nhận hoán đổi với Bà N, mặc Nhà nước thu hồi trên giấy tờ nhưng không Tu hồi
trên thực tế mà vẫn để ông Q quản lý, sử dụng ổn định ông Q cho nhiều người
5
mượn dẫn đến tranh chấp. Tn sở đó, Ủy ban nhân n Quận H đã Công văn
210/UBND-TNMT ny 20/01/2020c định trường hợp ông Q đủ điều kiện được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ đó, tại Công văn số 2703/STNMT-TTr
ngày 13/4/2020 của Sở Tài nguyên i tờng thuộc Ủy ban Thành phố Hồ C
Minh ng khẳng định việc hủy Quyết định 1849/QĐ-UBND-TNMT ngày
30/5/2016 củay ban nn dân Quận H với c do:
- Quyết định 1849/QĐ-UBND-TNMT không công nhận tranh chấp của
ông Phạm Chí Q với ông Lê Quốc S1, bà Ngô Thị Liễu C là chưa phù hợp, chưa
triệt để trong khi bản chất là có tranh chấp về quyền sử dụng đất;
- Thành phần Hội đồng hòa giải tại Biên bản hòa giải ngày 133/6/2014
không đúng quy định điểm b, khoản 1 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ về thi hành chi tiết Luật đất đai;
- Công văn 210/UBND-TNMT ngày 20/01/2020 đã xác định trường hợp
ông Q đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận theo Quy định tại Điều 36 Nghị
định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thi hành chi tiết Luật đất
đai;
Như vậy, Thông báo 523/TB-VP ngày 29/6/2020 của n phòng Ủy ban
nhân n Tnh phố Hồ Chí Minh sau đó Quyết định 2461/QĐ-UBND-
TNMT ngày 07/8/2020 thu hồi, hủy bỏ Quyết định 1849/QĐ-UBND-TNMT
ngày 30/5/2016 nhưng không phủ nhận một số nội dung trọng yếu về nguồn gốc
đất của ông Q, không phủ nhận quyền được công nhận quyền sử dụng đất của ông
Q theo quy định tại Điều 36 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ.
Việc hủy bỏ Quyết định 1849/-UBND-TNMT ngày 30/5/2016 sở
để ông Q giải quyết tranh chấp với ông S1, C theo quy định chung. Quá trình
hòa giải tại địa phương và hồ sơ tài liệu Ủy ban nhân dân cung cấp tại Tòa án xác
định việc hòa giải không Tành, ông Q quyền khởi kiện tại Tòa án để được
giải quyết. Hiện nay, theo Công văn số 4160/UBND-TNMT ngày 22/7/2023 của
Ủy ban nhân dân thành phố Công văn số 358/UBND ngày 06/9/2023 của
Ủy ban nhân dân phường AK đã xác định lại một lần nữa nguồn gốc phần đất
tranh chấp của ông Q. Việc ông Q u cầu Tòa án công nhận phần đất tranh
chấp vàu cầu ông S1, C di dời tài sản trả lại phần đất trên sở.
Ông Q không đồng ý ý kiến của ông S1, C. Theo đó, ông Q nhận thấy
ông S1, C bất nhất trong lời khai trong quá trình giải quyết khiếu nại trước
đây với quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Trước đây, ông S1, C
khẳng định đất ông S1, bà C mua là thuộc 500m
2
mua của ông T, trong quá trình
giải quyết tại Tòa án, ông S1, bà C lại xác định đất này là do ông S1, bà C chiếm
hữu ngay tình nằm ngoài phạm vi thửa đất 100m
2
của nhà số 1A Trần Não. Ông
S1, C chiếm giữ đất trái phép, không ngay tình thể hiện các tài liệu,
chứng cứ chứa các nội dung sau:
6
- Tại Biên bản lấy ý kiến của các hộ dân về nguồn gốc đất ngày
05/11/2018 đều xác định nguồn gốc đất là của ông Q và ông Q quản lý, sử dụng
cho đến năm 1999, phần đất này trên giấy tờ Nhà nước thu hồi để làm dự
án. Biên bản này đã được niêm yết ng khai theo Thông báo số 133/UBND
ngày 06/11/2018 tại Ủy ban nhân dân phường BA và Ban điều hành Khu phố 03
trong thời hạn 15 ngày từ ngày 06/11/2018 đến 20/11/2018. Theo kết quả Phiếu
lấy ý kiến của khu dân cư ngày 14/12/2018 đối với các h dân và được niêm yết
công khai theo Thông báo số 146 ngày 14/12/2018. Đến ngày 03/01/2019 thì
Thông báo số 01/TB-UBND kết thúc việc niêm yết kết quả xác minh nguồn gốc
đất đối với phần đất tranh chấp. Tuy nhiên, trong thời hạn trên không có tổ chức,
cá nhân nào có ý kiến khiếu nại, phản đối về nguồn gốc đất của ông Q. Bản thân
ông S1, C tại thời điểm đó vẫn đang tranh chấp với ông Q căn cứ hxin
cấp giấy lần đầu với nguồn gốc là mua của ông T. Ông S1, bà C không có bất cứ
ý kiến, khiếu nại liên quan đến việc xác minh nguồn gốc đất và cũng không
khiếu nại, khiếu kiện gì đối với Quyết định 2461/QĐ-UBND. Như vậy, cósở
xác định việc ông S1, bà C đã biết về nguồn gốc đất tranh chấp với ông Q
liên quan đến quyền sử dụng khu đất. Do vậy, ông S1, bà C không phải là người
chiếm hữu ngay tình đối với phần đất này, trong khi đất được xác định có nguồn
gốc là của ông Q hoán đổi với Bà N.
- Ông S1, bà C cho rằng thực hiện đăng kí kê khai nhà đất theo Quyết định
3376/QĐ-UBND-QLĐT năm 1999 đối với 100m
2
do không hiểu yêu cầu
của quan chức năng không sở bởi: Toàn bộ hồ chuyển nhượng,
xin cấp Giấy chứng nhận thì ông S1, C chỉ nhận chuyển nhượng và được cấp
giấy đối với 100 m
2
đất không phần đất nào khác, ông S1, C cho rằng
đất là mua trong phần 500m
2
của ông T là không đúng.
- Ông S1, C cho rằng năm 2002 phần đất tranh chấp và tài sản được
khai, thể hiện đầy đxác định chủ sử dụng Quốc S1 - Ngô Thị Liễu C
không sở. Bởi lẽ: Các tài liệu, bản vẽ của phía bị đơn cung cấp không
có giá trị là chứng cứ chứng minh việc quy chủ đối với thửa đất mà chỉ xác nhận
hiện trạng chiếm giữ thực tế của ông S1, C. Theo Sổ ngoại năm 2002 ghi
nhận hiện trạng ông S1, bà C là người đang chiếm giữ tại khu đất. Căn cứ Công
văn số 1568/BTNMT-ĐKTKĐĐ ngày 25/4/2007 của Bộ Tài nguyên i
Trường thì: “Sổ ngoại loại sổ lập theo hướng dẫn của Tổng cục Quản
ruộng đất (nay Bộ Tài nguyên và Môi trường) trong quá trình thực hiện Chỉ
thị 299-TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc,
phân hạng đăng thống ruộng đất trong cả nước. Sổ này được lập trong
quá trình đo đạc lập bản đồ giải thửa hoặc bản đồ địa chính để thể hiện các
thông tin điều tra, đo đạc ban đầu về hiện trạng sử dụng đất như số liệu thửa đất,
tên người đang sử dụng đất, diện tích, loại đất. Việc lập sổ này để phục vụ cho
việc tổ chức kê khai đăng ký quyền sử dụng đất mà không phải là sổ ghi kết quả
đăng quyền sử dụng đất. Do đó, tài liệu này không được coi một trong các
7
loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật đất
đai.” Như vậy, ông S1, C chiếm giữ đất đúng, không ý nghĩa xác định
ông S1, bà C là người sử dụng đất.
- Q trình gii quyết vụ án, ông S1, C xuất trình bản ng trình và cam
kết ca ông Trn n Đ1, ông Nguyễn n T1 và một số nời khác nhưng ni
dung không xác định phần đất tranh chấp ca ông S1, C. Điều y cũng phù
hp thực tế nội dung đã xác minh trước đây cay ban là căn nhà 1A Trần Não trên
phn đất 100m
2
bên cạnh không liên quan đến phần đt tranh chấp. Ny 19/8/1999,
ông T lập hp đng chuyn nợng diện tích 100m
2
đt (8m x 12,5m) Ban quản lý
ruộng đất thành ph đã cấp cho ông T theo Giấy giao đất s 1166/G ngày
06/12/1991 cho ông S1. Hợp đồng này đã đưc Ủy ban nn n pờng BA chng
nhn ngày 28/12/1999. Ngày 09/9/1999, ông S1 khai nhà đất theo Quyết định
3376/QĐ-UB-QLĐT của y ban nhân n Tnh ph với diện ch khn viên
100m
2
, diện ch xây dựng 50m
2
. Ny 15/12/1999, Ủy ban nhân dân Thành phố cp
giấy chứng nhn quyền sử dụng đt cho ông T với din tích đt 100m
2
đt thay thế
Giấy giao đất số 1166/GGĐ ngày 06/12/1991 của Ban qun lý ruộng đất tnh phố.
Do đó, ông T tiếp tục lập hp đồng chuyn nng din tích đất 100m
2
cho ông S1,
được y ban nn dân Phường BA xác nhận ngày 28/12/1999. Ny 17/11/2000, S
đa chính n đất đãc nhận vic chuyển nhượng quyền sử dụng đất này tn Giấy
chứng nhận. Ny 18/01/2000,y ban nhân dân Quận H cấp Giấy pp xây dựng s
95/GPXD-UB-QLĐT cho ông S1 y dựng nhà 01 trt, 01 lửng 02 lầu diện ch
sàn xây dng 324,8 m
2
. Căn nhà này được cấp s 1A Trần Não. Vợ chồng bà C cũng
không bt c giấy tthỏa thuận việc th, mướn mặt bằng với ông P, ông D.
- V phn ông Nguyn Huy T: Ti biên bn làm vic ngày 24/9/2013 ông T xác
đnh phn đt tranh chp không thuc 500m
2
ông T chuyn nhưng cho ông S1, bà C.
Ông T cũng không có bt c phn đi, khiếu ni, ý kiến gì đi vi vic thu hi.
- Căn cứ pháp lý để Toà xem xét đối với yêu cầu khởi kiện của ông Q: Hiện
nay, toàn bộ phần đất tranh chấp không bị thu hồi của cơ quan nhà nước. Các bên
không có ý kiến phản đối đối với diện tích được đo vẽ lại thực tế và kết quả định
giá. Những người liên quan không có ý kiến phản đối nào khác. Như vậy, việc đề
nghTòa án xem xét phần quyền sử dụng đất đối với diện tích sau đo vẽ 227,4
m
2
sở. Trong tổng số 227,4 m
2
thì có 138,3m
2
thuộc đất công trình công
cộng hành lang bảo vệ an toàn. Căn cquy định điểm a, khoản 1 Điều 99,
Điều 100 của Luật đất đai 2013 thì ông Phạm Chí Q người chứng minh được
quá trình sử dụng đất ổn định, lâu dài, giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất hợp
lệ. Trong trường hợp phần đất ông Q bị thu hồi theo Quyết định 487/QĐ-UB ngày
16/7/1992 của Ủy ban nhân dân huyện cũ thì ông Q đủ sở được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất.vậy, ông Q khởi kiện
yêu cầu Toà án giải quyết: Công nhận ông Phạm Chí Q được quyền sử dụng hợp
pháp đối với phần đất trên; buộc ông Quốc S1, Ngô ThLiễu C di dời tài
8
sản trên đất để trả lại phần đất trên cho ông Q. Ông Q hỗ trợ giá trị Công trình
trên đất theo kết quả Chứng thư thẩm định giá là: 149.689.135 đồng.
Bị đơn ông Quốc S1, Ngô Thị Liễu C trình bày: Năm 1995, thông
qua người môi giới ông Phạm Chí Q em trai vợ ông S1 Ngô Trung H2,
C ông S1 mua của một người Đồng Nai (không nhớ tên) phần đất
diện tích 500 m
2
, khi mua xong người này dẫn vợ chồng bà C đến gặp ông
Nguyễn Huy T để ông T ký giấy bán trực tiếp vì đất này có nguồn gốc của ông T
(mua bằng giấy tay). Việc mua bán được ông T xác nhận nhiều lần tại: "Biên
bản làm việc" ngày 24/9/2013 của Ủy ban nhân dân phường BA, Quận H và Bản
tự khai ngày 27/12/2022 tại Tòa án nhân dân thành phố . Đến ngày
15/12/1999, ông T đưc Ủy ban nhân dân Thành ph Hồ Chí Minh cấp quyền sử
dụng đất diện tích 100 m
2
nằm trong tổng diện tích 500 m
2
đã bán cho ông S1.
Đến ngày 17/01/2000, ông T đã cập nhật sang tên cho ông S1.
Sau khi mua đất của ông Nguyễn Huy T (1995), ông S1 C tiến hành
san lấp mặt bằng (vì nơi đây vùng đất trũng) xây dựng 01 căn nhà cột gỗ,
i lá, nền đal xi măng, diện tích 50 m
2
. Đến năm 2000, ông S1 và bà C sửa chữa
lại thành nhà cột sắt, mái tol, nền gạch tàucó 01 gác lửng. m 2005, ông S1,
C sửa chữa lần 02, bằng cột sắt vuông, mái tol sử dụng cho đến nay. Năm
1995, sau khi mua đất của ông T, ông S1 C làm nhà cho vợ chồng ông
Nguyễn Văn T1 thuê bán quán phê vợ chồng ông Ngô Triệu P, Nguyễn
Thị Thu N2 để đúc đal ống cống (vợ chồng em trai của C). Từ năm 1998
đến năm 2000, ông S1 C cho ông Ngô Trung N1 (em ruột C) kinh
doanh rửa xe. Tnăm 2000 đến nay, gia đình ông S1 C trực tiếp kinh
doanh ngành ăn uống. Ông S1 bà C đã được quan chức năng cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh vào tháng 6/2003.
Vđăng khai: Ông S1 khai nhà đất theo Quyết định 3376/QĐ-
UB-QT (năm 1999). Tuy nhiên, ông S1 chỉ khai phần diện tích 100 m
2
mà ông
T được Ủy ban nhân dân giao vào năm 1991 n n ông S1 và C xây dựng
trên phần đất 221,1m
2
o năm 1995. Tuy nhn, theo tài liệu năm 2002 phần diện
ch 221,1 m
2
i sản gắn liền trên đất đã được khai, thể hiện đầy đủ c
định chủ sử dụng : “Lê Quốc S1 - Ngô Thị Liễu C” do Sở i nguyên Môi
trường Tnh phố Hồ Chí Minh cấp cho ông S1 C. Qtrình sử dụng đất,
ông S1 và C đã nhiều lần nộp hồ sơ xin cấp quyền sử dụng đất nng đều được
quan chức ng trả lời chưa chtrương. Đến năm 2013, khi được biết Nhà
ớc có chủ trương cấp quyền sử dụng đất cho loại đất mà ông S1 C đang s
dụng nên ông S1 và C nộp hồ sơ xin được cấp thì được biết ông Q ng nộp hồ
xin cấp chquyền cho phần đất tn n c bên phát sinh tranh chấp.
Đến năm 2013, thì ông S1 mới biết nguồn gốc của phần đất 500 m
2
của
ông T bán cho ông S1 C vào năm 1995 do trước đó ông T mua của
Nguyễn Thị N. Như vậy, phần đất 227.4m
2
thuộc thửa 64, tờ bản đồ số 26 nêu
trên không nằm trong diện tích 500m
2
của ông T bán cho ông S1 và bà C từ năm
9
1995. Tuy nhiên, phần đất này ông S1 và bà C sử dụng từ năm 1995 (theo sự chỉ
dẫn ranh của ông Q và ông H2 lúc môi giới ông T bán đất cho chúng tôi). Như
vậy, ông S1 C người chiếm hữu sử dụng đất ngay tình từ năm 1995
cho đến nay, không ai tranh chấp hay khiếu nại gì.
Việc ông Q khai phần đất này nguồn gốc của ông bán cho ông T
không đúng. Ông Q không chứng cứ chứng minh phần đất trên của ông Q.
Ông Q không kê khai, đăng sử dụng đối với phần đất tranh chấp. Ông Q đã
từng khai với quan chức năng rằng do ông nghĩ đây đất nông nghiệp nên
không phải đăng ký. Điều này là hoàn toàn mâu thuẫn với chính lời khai của ông
Q, cụ thể ông Q khai: năm 1990, phần đất của ông đã được Ủy ban nhân dân
AK chấp thuận cho chuyển từ đất nông nghiệp lên thành đất trồng cây lâu
năm trên thực tế “Đơn xin chuyển cây trồng" của ông Q đã được Ủy ban
nhân dân xã AK chấp thuận vào ngày 04/5/1990. Nay ông khai tưởng là
đất nông nghiệp nên không Đ1 ký là không đúng.
Tại Quyết định số: 1489/QD-UBND-TNMT về việc giải quyết đơn tranh
chấp quyền sử dụng đất giữa ông Q ông S1, không ng nhận nội dung tranh
chấp của ông Q về việc đề nghị ông S1, C trả lại phần đất tranh chấp; xác định
diện tích 221,1 m
2
do Nớc trực tiếp quản lý. Sau khi nhận được Quyết định
trên ông S1 khiếu nại đến Ủy ban nn dân Tnh phố HChí Minh.
Ngày 12/7/2018, y ban nhân dân Thành phố H Chí Minh ban hành Công văn
37620/VP-NCPC gi S Tài nguyên - Môi trưng và y ban nhân dân Qun H đ yêu cu
kim tra, xác minh v ngun gc đt, ai là ngưi đăng , qun lý, s dng. Nếu din tích đt
trên đã giao cho y ban nhân dân xã AK qun lý thì sao không có bn đ giao đt kèm
theo. Sau khi đi chiếu vi yêu cu cay ban nhân dân Thành ph H Chí Minh ti Công
văn s: 7620/VP-NCPC nêu trên, y ban nhân dân Qun H đã ban hành Quyết đnh s
246/QĐ- UBND-TNMT ngày 07/8/2020 thu hi Quyết đnh s 1849/QĐ-UBND -
TNMT ngày 30/5/2016. Mt khác, ông Q không có chng c chng minh ông Q có đt nm
ti v trí phn đt chúng tôi đang s dng, ông Q cũng không s dng phn đt này ngày nào.
Người quản lý, sử dụng, kê khai đăng ký phần đất này là ông S1 và bà C. Vì vậy,
nay tôi đề nghị Tòa án c yêu cầu khởi kiện của ông Q.
c n thống nhất kết quxemt, thẩm định tại chỗ, Chứng thư thẩm định
giá số 2510723/CT-TV ngày 21/7/2023 của ng ty cổ phần định giá đầu
kinh doanh bất động sản TV và Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 16/5/2023 của Trung
m đo đạc bản đ- Sở Tài nguyên i trường Thành phố Hồ C Minh.
Nời quyn lợi, nga vliên quan Ủy ban nn dân thành ph có
ông Nguyễn n U người đi din hp pháp tnh bày: Do phần đất tranh chấp
ca được cấp giấy chứng nhận nên nguồn gốc và quá trình sử dng do y ban nhân
dân phường AK c nhận. Phía y ban đã cung cấp cho Tòa án c tài liu sau:
Quyết định số 1849/QĐ-UBND-TNMT ngày 30/5/2016 ca Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận H v gii quyết tranh chấp; Công văn số 7620/VP-NCPC ngày 12/7/2018
10
và Thông o số 523/TB-VP ny 29/6/2020 của Văn phòng y ban nhân dân
Tnh phHC Minh; Quyết đnh số 2461/QĐ-UBND-TNMT ngày 07/8/2020
của Chủ tịch Ủy ban nn dân Quận H về thu hồi, hủy bỏ Quyết định s 1849/QĐ-
UBND-TNMT ngày 30/5/2016 ca Chủ tịch Ủy ban nn dân Quận H về giải quyết
tranh chấp c tài liệu liên quan khác. Đề nghị được vắng mặt trong q trình giải
quyết ván.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân n thành ph
ông Trầm Thuận H1 người đại diện hợp pháp trình y: Tại n bản số
358/UBND ngày 06/9/2023, Ủy ban nhân dân phường AK trlời công văn c
minh của Tòa án: Về nguồn gốc, quá trình đăng khai, sử dụng đất đối với
phần đất tranh chấp đã được thể hiện tại Công văn số 04/UBND ngày 09/01/2015
Quyết định số 1849/QĐ-UBND-TNMT ngày 30/5/2016 của Ủy ban nhân n
Quận H (nay thành phố TĐ). Đnghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngô Trung H2 trình bày: m
1999, ông mượn phần đất tranh chấp của ông Q cho em trai là ông Ngô Triệu P
làm sở đúc nắp cống, bi cống. Sau đó, ông P bị tai nạn, ông cho anh trai
ông Ngô Thế D sdụng kinh doanh quán nước. Do bất hòa với ông S1, C
nên ông D không tiếp tục làm ông S1, C chiếm giữ trái phép cho đến nay.
Ông xác định phần đất tranh chấp của ông Q.
Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan ông N Thế D trình bày: Năm 1999,
em trai của ông là Ngô Trung H2 mượn đất của ông Q để cho nời em Ngô Triệu
P sử dụng. Sau khi ông P bị tại nạn, t ông s dụng đ kinh doanh quán ớc cùng
ông S1, C. Do mâu thuẫn n ông không tiếp tục làm, ông S1, C chiếm giữ
phần đất y. Ông xác định phần đất tranh chấp của ông Q.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị S2 trình bày:
thống nhất với trình bày của ông Q, đề nghị công nhận quyền sử dụng hợp
pháp phần đất trên cho ông Q và xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Nguyễn Ngọc V, Hồ
Lệ A trình bày: Ông bà là người phụ giúp C kinh doanh quán ăn trên phần đất
tranh chấp, ông V, A xác định không liên quan và không có yêu cầu gì.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hộ kinh doanh Quán 1A do
Ngô Thị Liễu C đại diện trình bày: Thống nhất với ý kiến trình bày của bị
đơn.
Người làm chứng: Nguyễn Thị Thu N2, ông Ngô Trung H2 (là em trai
u của C) trình bày: ông được ông S1, C cho ợn phần đất tranh
chấp đm nghề đúc ống cống và kinh doanh rửa xe.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 3860/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa
án nhân dân thành phố TĐ, đã quyết định:
11
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Công nhận ông Phạm
Chí Q quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất 227.4m
2
thuộc Thửa
số 64, Tờ bản đồ số 26 (theo bản đồ địa chính năm 2022) thuộc phường AK,
thành phố (Thửa đất số 498, Tờ bản đồ số 1, AK, huyện theo Tài liệu
bản đồ 299/TTg) theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 16/5/2023 của Trung tâm đo
đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố, trong đó: diện tích trong
lộ giới: 138.3m
2
, ngoài lộ giới: 89.1m
2
.
Ông Q được quyền liên hệ với quan nhà nước thẩm quyền để thực
hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ thuế
theo quy định pháp luật. Đối với diện ch trong lgiới, ông Q phải chấp hành
nghĩa vụ giao đất khi nhà nước thu hồi đất.
2. Buộc ông Quốc S1, Ngô Thị Liễu C phải tháo dỡ các công trình
xây dựng trên đất. Trường hợp ông S1, C không thực hiện thì phải chịu chi
phí cưỡng chế thực hiện tháo dỡ trong quá trình thi hành án của quan thi
hành án có thẩm quyền.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng
quyền kháng cáo của các đương sự.
Tại Bản án phúc thẩm số 313/2024/DS-PT ngày 16/42/2024 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Quốc S1 và và Ngô Thị Liễu C.
Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 556/QĐ-VKS-DS ngày
04/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TĐ.
Sửa Bản án n sự thẩm số 3860/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 và Quyết
định sửa chữa bổ sung số 489/QĐ-SCBSBA ngày 18/10/2023 của Tòa án nhân
dân Thành phố . Không chấp nhậnu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc:
Yêu cầu công nhận ông Phạm Chí Q quyền sử dụng đất hợp pháp đối
với diện tích đất 227,4m
2
thuộc
Thửa số 64, Tờ bản đồ số 26 (theo bản đồ đại
chính năm 2022 thuộc phường AK, thành phố (Thừa số 489, Tờ bản đồ số 1,
AK, huyện theo Tài liệu bản số 299/TTg) theo Bản đồ hiện trạng vị trí
ngày 16/5/2023 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên Môi trường
Thành phố, trong đó: diện tích trong lộ giới: 138,3m
2
, ngoài lộ giới 89,1m
2
.
Buộc ông Lê Quốc S1, bà Ngô Thị Liễu C trách nhiệm tháo dỡ toàn bộ
các công trình trên đất, di dời khỏi vị trí đất.
Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn quyết định về phần chi phí tố tụng, án phí
hiệu lực của bản án.
Ngày 15/4/2024, ông Phạm Chí Q đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.
12
Ngày 02/8/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 192/QĐ-VKS-DS kháng nghị đối với bản án
dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi, bổ sung kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
[1]. Phần đất tranh chấp diện tích 227.4m
2
thuộc thửa số 64, tbản đồ
số 26 (theo bản đồ địa chính năm 2022) tọa lạc tại phường AK, thành phố
(thửa đất số 498, t bản đồ số 1, AK, huyện TĐ theo Tài liệu bản đồ
299/TTg).
Vnguồn gốc quá trình đăng , khai sử dụng phần đất tranh chấp:
Năm 1935, ông Hồ n Đ1 (cha của bà Hồ Huệ Q1) mua của ông Lê n B phần
diện tích 47.268m
2
thuộc thửa số 7, số 8; t bản đồ số 4 (Tài liệu trước năm 1975).
Tớc năm 1972, ông Đ1 cho ông Hồ Văn C1 thuê để canh tác. Năm 1975 ông C1
trả lại đất cho gia đình Q1 diệnch khoảng 10.000m
2
. Năm 1976 - 1977, bà Q1
cháu ông Tơng Công M canh tác được hai năm thì đưa đất vào Tập đoàn.
Năm 1982, Tổ pho AK đăng ruộng đất theo Chỉ thị 299/TTg diện ch
8.145m
2
. Sau đó, Tập đoàn giao khoán cho bà N diện ch khoảng 6.500m
2
sử
dụng. Phần đất tranh chấp là một phần trong diện tích đất 6500m
2
của N.
Ngày 05/4/1991, ông Q và N cùng lập biên bản thỏa thuận đổi đất
nội dung: Bà N đổi phần đất nông nghiệp diện tích 4.000m
2
vị trí (ngã tư khu
xá) cho ông Q, theo đó N lấy phần đất nông nghiệp diện tích 4.000m
2
của ông Q đê vàm trê lớn đã được Ủy ban nhân dân AK chấp thuận
ngày 08/4/1991.
Ngày 10/10/1998, ông Q và bà N cùng có đơn xin đổi đất nội dung:
N đổi phần đất nông nghiệp diện tích 2.000m
2
vtthuộc một phần thửa
498, tbản đồ số 1, xã AK, huyện TĐ (ngã lão cũ) cho ông Q, theo đó bà
N lấy phần đất nông nghiệp diện tích 2.000m
2
của ông Q ở đê vàmtrê lớn và
đã được Hợp tác xã chấp thuận.
Sau khi đổi đất với N, phần đất tranh chấp nằm trong diện tích đất của
ông Q được quyền sử dụng. Do việc chuyển nhượng đất trái pháp luật, ngày
16/7/1992, Ủy ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 487/QĐ-UBND
thu hồi diện tích 7.465m
2
thuộc một phần thửa 498, giao phần diện tích 5.000m
2
cho Hồ Huệ Q1; phần diện tích 2.645m
2
còn lại (trong đó phần đất tranh
chấp) giao cho Ủy ban nhân dân AK quản để cấp cho gia đình chính sách
hoặc đang thiếu đất sản xuất. Tuy nhiên, sau khi Quyết định thu hồi đất, nhà
nước không quản lý, do ông Q quản lý. Đến năm 1999, ông Q cho ông H2
mượn đất nhưng thực tế ông H2 cho em trai ông Ngô Triệu P sử dụng, sau đó
anh trai của ông H2 là ông Ngô Thế D ợn sử dụng làm chỗ bán nước uống,
tiếp đó ông S1, C sử dụng đkinh doanh quán phê. Những người làm
13
chứng đều thừa nhận việc mượn đất của ông Q sử dụng, và đồng ý trả lại đất cho
ông Q.
Tại Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư ngày 05/11/2018 và ngày 14/12/2018,
đều thể hiện nội dung giống như trên. Các tài liệu xác minh của cơ quan quản lý
đất đai tại địa phương vnguồn gốc, việc đổi đất giữa N ông Q, quá
trình sử dụng cũng thể hiện nội dung như trên, ngoài ra lời khai của người làm
chứng phù hợp. Do đó, căn cứ xác định về nguồn gốc đất ông Q
người quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp.
[2]. Ông S1, bà C cho rằng phần đất tranh chấp nằm trong diện tích đất mà
ông mua của ông T từ năm 1995. Tuy nhiên, quá trình giải quyết ván ông
S1, C thay đổi lời khai, xác nhận phần đất tranh chấp không nằm trong diện
tích 500m
2
mua của ông T cho rằng ông người chiếm hữu, ngay tình
phần đất này từ năm 1995 không tranh chấp. Ngoài ra, ông S1, C còn cho
rằng có kê khai đăng ký nhà đất năm 1999 theo Quyết định 3376/QĐ-UB-QLĐT
nhưng chỉ khai diện tích đất 100m
2
, do thiếu hiểu biết nên chỉ khai
phần nhà trên diện tích đất tranh chấp mà không kê khai diện tích đất này.
[3]. Qua đối chiếu các tài liệu, chứng cứ, thấy rằng: Ngày 14/11/1990,
Nguyễn Thị N lập biên bản thỏa thuận nhường quyền sử dụng đất diện tích 500
m
2
(10m x 50m) cho ông Nguyễn Huy T được Ủy ban nhân dân xã AK xác nhận
ngày 20/11/1990. Ngày 06/12/1991, Ban quản ruộng đất giấy giao đất số
1166/GGĐ giao diện tích 100m
2
(8m x12.5m) vị trí thuộc một phần thửa số
498, tbản đồ số 1, AK cho ông T để xây dựng nhà ở. Ngày 16/7/1992, Ủy
ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 487/QĐ-UB thu hồi diện tích
7.645m
2
, trong đó diện tích khoảng 310m
2
nguồn gốc ông T nhận chuyển
nhượng của N đã giao cho Công ty quản phát triển nhà Cần Giờ để
xây dựng nhà ở cho cán bộ công nhân viên.
Ngày 19/8/1999, ông T lập hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất
100m
2
cho ông S1, được Ủy ban nhân dân xã BA chứng nhận ngày
19/8/1999. Sau khi được cấp giấy chứng nhận, ngày 15/12/1999, ông T lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền phần đất cho ông S1. Ngày 16/02/2001, Ủy ban
nhân dân Quận H có Thông báo số 99/TB-UB-QLĐT về việc tạm cấp nhà số 1A
Trần Não, ấp BK3, phường BA, Quận H cho nhà của ông S1. Như vậy, phần đất
tranh chấp không nằm trong diện tích đất ông S1 mua của ông T.
Ngày 09/9/1999, ông S1 kê khai nhà đất theo Quyết định số 3376/QĐ-UB-
QLĐT ngày 11/6/1999 của Ủy ban nhân dân thành phố với diện tích khuôn viên
100m
2
, diện tích xây dựng 50m
2
, một trệt, vách lá, cột gỗ, mái lá, nguồn gốc
sang nhượng của ông T. Tại Bản kê khai này, ông S1 kê khai mua đất của ông T
ngày 19/8/1999, tuy nhiên, ông S1, C chkhai phần đất 100m
2
không
khai phần đất tranh chấp cho rằng do thiếu hiểu biết nên không thực hiện
việc khai. Ông S1 lời khai bất nhất về nguồn gốc đất, lúc thì khai nhận
chuyển nhượng của ông T, lúc thì quản lý, sử dụng ổn định từ năm 1995. Ông
Ngô Trung N1, Nguyễn Thị Thu N2 (em ruột em dâu của C) cho
14
rằng được ông S1, C cho mượn sdụng phần đất tranh chấp nhưng cũng
không tài liệu, chứng cứ chứng minh. Mặt khác, quá trình tranh chấp từ năm
2013, ông N1, và bà N2 không tham gia và không có ý kiến gì.
Ngoài ra, ông S1, bà C cung cấp trích lục bản đồ địa chính ngày
27/8/2020, đây là tài liệu đo vẽ thể hiện người sử dụng tại thời điểm đo vẽ. Thời
điểm này phần đất tranh chấp đang bị thu hồi theo Quyết định số 487/QĐ-
UBND ngày 16/7/1992 của Ủy ban nhân dân huyện nên không được phép
đăng ký. Mặt khác, phần đất tranh chấp nguồn gốc từ việc đổi đất của ông Q
cho bà N. Sau đó, phần đất này đã bị thu hồi theo Quyết định số 487/QĐ-UB
ngày 16/7/1992. Như vậy, việc ông S1, C sử dụng diện tích đất này nếu
sau khi đã quyết định thu hồi đất cũng không ngay tình, các bên
tranh chấp về quá trình sử dụng nên không thuộc trường hợp được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật đất đai
2013.
[4]. Xét thấy, phần đất tranh chấp nguồn gốc của ông Q bị Nhà nước
thu hồi nhưng Nhà nước không quản lý, thực tế ông Q người quản lý. Căn cứ
Điều 36 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật đất đai năm 2013: “Điều 36. Cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hu nhà và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường
hợp Nhà nước đã quyết định quản đối với đất đai, tài sản gắn liền với đất
nhưng chưa thực hiện: Hộ gia đình, nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất mà trước đây cơ quan nhà nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai,
tài sản đó trong quá trình thực hiện chính sách của Nhà nước nhưng thực tế Nhà
nước chưa thực hiện quyết định thì người đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất được tiếp tục sử dụng được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp
luật”.
[5]. Ngày 27/11/2024, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh Văn bản số 3598/CV-TANDCC gửi Ủy ban nhân dân thành phố
yêu cầu ý kiến liên quan đến việc giải quyết phần đất tranh chấp. Tại Công
văn số 12134/UBND-TNMT ngày 09/12/2024 Ủy ban nhân dân thành phố
phúc đáp có nội dung: Phần đất tranh chấp hiện nay đã bị thu hồi tại Quyết định
số 487/QĐ-UBND ngày 16/7/1992 của Ủy ban nhân dân huyện nhưng thực
tế Nhà nước chưa thực hiện quyết định thì người đất bị thu hồi được xem xét
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
theo quy định của pháp luật. Đồng thời, đối với diện tích 138,3 trong lộ giới Ủy
ban nhân dân thành phố cũng trả lời: “Căn cứ khoản 6 Điều 137 Luật Đất
đai năm 2024, quy định:
Điều 137. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
15
6. Hộ gia đình, nhân, cộng đồng n được sử dụng đất theo bản án
hoặc quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài thương
mại Việt Nam, quyết định thi hành án của quan thi hành án, quyết định giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của quan nhà nước thẩm
quyền đã được thi nh, văn bản ng nhận kết quả hòa giải thành thì được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”
Căn cứ chứng cứ, tài liệu trong hồ vụ án ng như ý kiến của Ủy
ban nhân dân thành phố TĐ, Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn ông Phạm Chí Q về việc công nhận cho ông Q được quyền s
dụng hợp pháp đối với phần đất trên buộc ông S1, C tháo dỡ các công
trình trên đất để trả lại phần đất trên cho ông Q căn cứ. Tòa án cấp phúc
thẩm không chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đánh giá không đúng các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 337 và Điều 343 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 192/-VKS-DS ngày
02/8/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phHChí
Minh.
2. Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2024/DS-PT ngày 16/4/2024 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm
số 3860/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố TĐ, Thành
phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là
ông Phạm Chí Q với bị đơn là ông Lê Quốc S1, Ngô Thị Liễu C.
3. Quyết định giám đốc thẩm hiệu lực pháp luật kể tngày ra quyết
định.
Nơi nhận:
- Chánh án (để báo cáo);
- Vụ pháp chế và QLKH - TANDTC (để biết);
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND - TPHCM;
- TAND thành phố TĐ, TPHCM;
- Chi Cục THADS thành phố TĐ, TPHCM;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu: VT (VP, GĐKT II, THS), hồ sơ vụ án.
TM. ỦY BAN THẨM PHÁN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Văn Cường
Tải về
Quyết định số 22/2025/DS-GĐT Quyết định số 22/2025/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 22/2025/DS-GĐT Quyết định số 22/2025/DS-GĐT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất