Bản án số 635/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 của TAND Quận 11, TP. Hồ Chí Minh

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 635/2019/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 635/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 của TAND Quận 11, TP. Hồ Chí Minh
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Quận 11 (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 635/2019/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/11/2019
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 635/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ LY HÔN 

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 416/2019/TLST-HNGĐ ngày 12/7/2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị T, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang; Bà T có đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Lý Quản Đ, sinh năm 1979; địa chỉ: đường L, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Ông Đ vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/6/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Đỗ Thị T trình bày:

Bà T và ông Lý Quản Đ tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 17, đăng ký ngày 17/02/2017.

Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên là Lý Hoàng A, sinh ngày 06/8/2017. Trong quá trình chung sống với nhau, bà T và ông Đ xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu là do hai bên không hợp tính tình, bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã. Bà T cho rằng ông Đ thường xuyên ghen tuông vô cớ làm ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc của cả hai người khiến bà T rất mệt mỏi. Bà T cũng đã nhiều lần cố gắng khuyên nhủ để ông Đ thay đổi nhưng không có kết quả, cả hai đã sống ly thân từ tháng 5/2019 cho đến nay. Bà T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Đ để bà ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng trẻ Lý Hoàng A, sinh ngày 06/8/2017. Bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định trong quá trình chung sống với ông Đ cả hai không có tài sản chung, không có nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tại phiên tòa, bà Đỗ Thị T có đơn xin vắng mặt. Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong Đơn khởi kiện đã nêu và ý kiến bà đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ kiện tại Tòa án.

Về phía bị đơn: Ông Lý Quản Đ có đăng ký thường trú và hiện đang cư ngụ tại địa chỉ số đường L, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án nhân dân Quận 11 đã thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho ông Đ nhưng ông Đ không đến Toà án giải quyết. Do đó, Toà án không thể tiến hành lấy lời khai, hoà giải đối với bị đơn được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa bà T và ông Đ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, quan điểm sống không phù hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại các buổi hòa giải ông Đ đều không đến, chứng tỏ ông Đ cũng không có thiện chí muốn đoàn tụ với bà T. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông Đ là trầm trọng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu xin ly hôn của bà T có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đỗ Thị T; giao trẻ Lý Hoàng A, sinh ngày 06/8/2017 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận việc bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: Không có. Nguyên đơn chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đỗ Thị T có đơn yêu cầu ly hôn với ông Lý Quản Đ, theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại Kết quả xác minh của Công an Phường M, Quận N thì ông Lý Quản Đ có đăng ký thường trú và hiện đang cư trú tại Quận 11. Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Đỗ Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Lý Quản Đ vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho ông Đ nhưng ông Đ đều vắng mặt, không đến Tòa giải quyết. Ông Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị T và ông Lý Quản Đ tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 17, đăng ký ngày 17/02/2017. Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông Đ là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà T và ông Đ chung sống có 01 con chung tên Lý Hoàng A, sinh ngày 06/8/2017.

Mâu thuẫn giữa bà T và ông Đ phát sinh nguyên nhân chính là do thời gian tìm hiểu ngắn nên khi về chung sống với nhau cả hai bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống mà không thể giải quyết được. Ông Đ thường ghen tuông vô cớ nên cuộc sống chung rất mệt mỏi. Bà T cũng đã cố gắng khuyên nhủ để ông Đ thay đổi nhưng không có kết quả, bà T và ông Đ đã sống ly thân tháng 5/2019 cho đến nay. Bà T nhận thấy tình cảm giữa vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông Đ.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông Đ. Ông Đ biết nội dung khởi kiện và yêu cầu của bà T nhưng trong suốt quá trình Tòa án thụ lý đến phiên tòa hôm nay ông Đ đều không đến Tòa để giải quyết. Điều đó cho thấy ông Đ không có thiện chí muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Qua sự việc đã nêu thể hiện tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông Đ đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị T.

[4] Về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Bà T và ông Đ chung sống có 01 con chung tên là Lý Hoàng A, sinh ngày 06/8/2017. Hiện nay trẻ Hoàng A đang ở cùng với bà T, do bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết giao trẻ Hoàng Anh cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, chấp nhận yêu cầu của bà T về việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Ông Lý Quản Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ghi nhận lời khai của bà T xác định bà và ông Đ không có tài sản chung và nợ chung. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu của bà Đỗ Thị T. Cho ly hôn giữa bà Đỗ Thị T và ông Lý Quản Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 17, đăng ký ngày 17/02/2017 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung:

Giao trẻ tên Lý Hoàng A, sinh ngày 06/8/2017 cho bà Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Ông Đ được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở ông Đ thực hiện quyền này.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0010346 ngày 09/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự của các đương sự được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất