Bản án số 31/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 của TAND huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội về chị Nguyễn Thị T xin ly hôn anh Phan Văn T

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 31/2019/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 31/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 của TAND huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội về chị Nguyễn Thị T xin ly hôn anh Phan Văn T
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Mỹ Đức (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 31/2019/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/09/2019
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ CHỊ NGUYỄN THỊ T XIN LY HÔN ANH PHAN VĂN T

Ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 223/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1982. Có mặt.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Th, xã Phùng X, huyện Mỹ Đ, thành phố Hà Nội.

- Bị đơn: Anh Phan Văn T, sinh năm 1981. Vắng mặt.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Th, xã Phùng X, huyện Mỹ Đ, thành phố Hà Nội.

- Người làm chứng: Ông Phan Văn Q, sinh năm 1953. Vắng mặt.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Th, xã Phùng X, huyện Mỹ Đ, thành phố Hà N.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu và lời trình bày của các đương sự có trong hồ sơ, vụ án có nội dung như sau:

Chị Nguyễn Thị T và anh Phan Văn T trên cơ sở có tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phùng Xá năm 2004. Trước khi cưới vợ chồng có tìm hiểu một thời gian sau khi cưới hai vợ chồng về chung sống tại thôn Thượng, xã Phùng Xá, thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường nhưng từ khoảng 03 năm trở lại đây vợ chồng xảy ra mâu thuẫn lý do anh T là người ăn chơi không chịu khó làm ăn và có quan hệ bất chính với người khác, chị T và gia đình hai bên cũng đã khuyên bảo nhưng anh T vẫn không thay đổi. Năm 2018 chị T cũng đã làm đơn ra Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức để giải quyết ly hôn và anh T xin đoàn tụ và hứa sửa đổi và chị T đã rút đơn để cho anh T có cơ hội đoàn tụ. Nhưng ngay sau đó, thì anh T vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tiếp tục quan hệ ngoài luồng với người khác, chị T cũng không chịu được và đã thông báo cho anh T về việc ly hôn, anh T có quan điểm là không ly hôn nhưng anh vẫn bỏ nhà đi ở với người khác. Nay chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn vì T cảm vợ chồng đã hết.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Phan Thanh B, sinh ngày 01/12/2005 và Phan Văn Tuấn A, sinh ngày 28/4/2008. Hai cháu hiện nay đang ở với chị T, quan điểm vợ chồng ly hôn chị T xin nuôi một con chung, giao anh T nuôi 01 con chung, không yêu cầu anh T trợ cấp nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, công nợ chung nào.

Qua xác minh tại UBND xã Phùng Xá ngày 05/8/2019 chị T và anh T có đăng lý kết hôn tại UBND xã Phùng Xá ngày 20/10/2004, vợ chồng có đăng ký hộ khẩu thưởng trú tại thôn Thượng, xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội chưa cắt chuyển khẩu đi đâu, Về con chung vợ chồng có hai con chung là cháu Phan Thanh B, sinh 01/12/2005 và Phan Văn Tuấn A, sinh ngày 28/4/2008.

Quá trình giải quyết vụ án anh T vắng mặt không khai báo gì với Tòa án, bố đẻ anh của anh T là ông Phan Văn Q cho biết:

Anh T vẫn có hộ khẩu thường trú ở tại địa phương, hiện nay đang đi làm ăn ở trong miền Nam nhưng không làm thủ tục tạm vắng. Việc ly hôn của hai vợ chồng, anh T cũng có biết, ông Q vẫn liên lạc được với anh T nhưng anh T không cho biết hiện đang ở địa chỉ nào, anh T có quan điểm không về được và đề nghị giải quyết vắng mặt. Việc giao thông báo và triệu đối với anh T thì ông nhận trách nhiệm và đã thông báo lại cho anh T được biết về việc chị T xin ly hôn để anh có quan điểm lại với Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân của chị T và anh T, ông Q cho biết: Chị T và anh T trên cơ sở có tìm hiểu và tự nguyện kết hôn năm 2004, sau khi kết hôn được 10 ngày thì vợ chông ông bà cho vợ chồng anh chị ra ở riêng, trong quá trình chung sống anh T không chịu làm ăn mải chơi nên vợ chồng mới nảy sinh mâu thuẫn vợ chồng cãi nhau nên anh T bỏ vào Nam làm ăn khoảng từ tháng 2/2019 đến nay. Chị T đã từng nộp đơn xin ly hôn anh T, anh T xin hòa giải đoan tụ và chị T cũng đã rút đơn. Nay chị T tiếp tục xin ly hôn, anh T xin vắng mặt đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Về nguyện vọng của hai con chung: Cháu B và cháu A đều có nguyện vọng xin được ở với chị Nguyễn Thị T.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên quan điểm và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phan Văn T.

Về con chung: Nay chị thay đổi quan điểm và đề nghị xin được nuôi hai con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Đại diện VKS phát biểu ý kiến về quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã làm đúng quy trình tố tụng, không có vi phạm gì, đã xác định đúng tư cách của đương sự, giải quyết đúng thời hạn của vụ án.

Nguyên đơn: Chấp hành đúng quy định tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn đã được tòa án báo gọi triệu tập hợp lệ và tại phiên tòa đã triệu tập lần hai nhưng vẫn cố T vắng mặt nên Hội đồng xét xử vắng mặt là đúng quy định tại điều 227 BLTTDS.

Tại phiên tòa: HĐXX đã thực hiện đúng các thủ tục, quy trình và thực hiện xét xử công khai khách quan.

Về đường lối: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T đối với anh Phan Văn T.

Về con chung: Giao hai con chung Phan Thanh B, sinh ngày 01/12/2005 và Phan Văn Tuấn A, sinh ngày 28/4/2008 cho chị T trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các bên có yêu cầu mới về thay đổi người nuôi con chung. Ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản chung và công nợ chung vợ chồng: không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Anh Phan Văn T hiện tại vẫn có hộ khẩu tại địa phương, không xin tạm vắng, tạm trú nhưng vắng mặt tại địa phương không khai báo địa chỉ nơi đang ở. Tòa án đã tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập làm việc, giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhiều lần thông qua bố đẻ của anh T, anh T vẫn vắng mặt không hợp tác và chỉ có quan điểm thông qua người thân đề nghị tòa án giải quyết vụ việc ly hôn theo pháp luật. Do vậy giải quyết việc ly hôn theo đơn khởi kiện của chị T với anh Phan Văn T thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức – thành phố Hà Nội theo quy định tại Điều 35, Điều 39 và vụ án đã đủ điều kiện mở phiên tòa theo quy định tại điều 227 BLTTDS.

Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Phan Văn T trước khi cưới có tìm hiểu trước và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Phùng Xá ngày 20/10/2004. Việc kết hôn này là hoàn toàn tự nguyện và hợp pháp.

Về yêu cầu ly hôn: Quá trình chung sống của vợ chồng chị T, anh T đã có những mây thuẫn nảy sinh xuất phát từ T cảm vợ chồng không hòa hợp, anh T thường xuyên vắng nhà, không có trách nhiệm với gia đình, bỏ mặc mẹ con chị T. Chị T đã từng làm đơn đến Tòa án để giải quyết ly hôn nhưng sau đó rút đơn để cho anh T cơ hội sửa đổi và đoàn tụ nhưng anh vẫn không thay đổi, quá trình giải quyết vụ án ly hôn khi được tòa án báo gọi về giải quyết nhưng anh T cố T lẩn tránh không hợp tác. Vợ chồng cũng đã sống ly thân nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng của chị T đối với anh T đã hết, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho chị T được ly hôn anh T là phù hợp với luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Phan Thanh B, sinh ngày 01/12/2005 và Phan Văn Tuấn A, sinh ngày 28/4/2008, hai cháu đều trên 7 tuổi và có nguyện vọng được ở với mẹ để mẹ chăm sóc. Chị T cũng đề nghị xin nuôi hai con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét trong quá trình giải quyết vụ án anh T vắng mặt không trình bày quan điểm và đề nghị gì về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung. Để đảm bảo quyền lợi được chăm sóc, nuôi dưỡng, cần thiết giao hai con chung cháu Bình và cháu Tuấn cho Chị T chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các bên có yêu cầu thây đổi về ngươi nuoi con chung là phủ hợp với quy định của pháp luật. Chấp nhận việc chị T không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung vì không trái pháp luật. Anh T có quyền thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chị T trình bày không có tuy nhiên anh T vắng mặt và chưa trình bày quan điểm về tài sản, công nợ chung nên Tòa án sẽ tách ra giải quyết ở một vụ án khác (nếu có) theo yêu cầu của anh T về việc chia tài sản, công nợ chung vợ chồng.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí theo pháp luật

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về … án phí và lệ phí Tòa án;

Xử cho: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Phan Văn T.

Về con chung: Giao hai con chung Phan Thanh B, sinh ngày 01/12/2005 và Phan Văn Tuấn A, sinh ngày 28/4/2008 cho chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi các con chung trưởng thành hoặc cho đến khi các đương sự có yêu cầu mới về người trực tiếp nuôi con chung và trợ cấp nuôi con chung. Anh T có quyền thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

Về tài sản chung và công nợ chung: Tách tài sản chung và công nợ chung vợ chồng để giải quyết ở một vụ án khác (nếu có) khi anh T có đủ điều kiện và yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng, được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0002391 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức – thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất