Bản án số 27/2017/HSST ngày 09/11/2017 của TAND huyện U Minh, tỉnh Cà Mau về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 27/2017/HSST

Tên Bản án: Bản án số 27/2017/HSST ngày 09/11/2017 của TAND huyện U Minh, tỉnh Cà Mau về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện U Minh (TAND tỉnh Cà Mau)
Số hiệu: 27/2017/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/11/2017
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 27/2017/HSST NGÀY 09/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 11 năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2017/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Văn T, năm 1996, tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp 1, xã Khánh Hội, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; Học vấn: lớp 6/12; Nghề nhiệp: làm thuê và đi biển; Tiền án: Không; Tiền sự: Bị Công an huyện U Minh ra Quyết định số 107/QĐ-XPHC ngày 10-8-2016 xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 2.000.000 đồng (chưa nộp phạt); Cha tên Võ Văn Đền, sinh năm 1951, mẹ tên Nguyễn Thị Hiếu, sinh năm 1955; Bị cáo chưa có vợ con.

Bị cáo được tại ngoại điều tra (có mặt) Người bị hại: Anh Danh Minh N (vắng mặt)

Anh Lư Quốc Th (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp 1, xã Khánh Hội, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 30-5-2017 Võ Văn T đi chơi game về ngang vựa cá Phi Long thuộc ấp 1, xã Khánh hội, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau thì thấy có 2 chiếc ghe biển tên Phong Nhân đang neo đậu nên T nảy sinh ý định xuống ghe tìm tài sản để lấy trộm. T xuống bước truyền lần lượt qua 2 ghe đi vào ca bin và nhìn thấy hai chiếc điện thoại di động để trên bàn, có 1 chiếc đang sạc hiệu Invens Knight màu trắng (của anh Danh Minh N) và chiếc còn lại hiệu I Phone 3 màu đen (của anh Lư quốc Th) nên T lấy bỏ vào túi quần rồi đi về nhà tắt nguồn điện thoại và ngủ. Sáng ngày 31-5-2017 T đến tiệm game Nhựt Nguyên chơi game, đem theo hai chiếc điện thoại lấy trộm và đưa chiếc điện thoại hiệu Invens Knight nhờ chủ tiệm game sạc dùm.

Sau khi phát hiện 2 chiếc điện thoại của anh N và anh Th bị mất nên chủ vựa cá Phi Long mở camera an ninh gắn trước cửa vựa cá đã ghi lại hình ảnh thì thấy Võ Văn T đi xuống ghe Phong Nhân, nghi ngờ T lấy trộm điện thoại nên đến tiệm game tìm T đưa về vựa cá Phi Long giao cho Công an xã Khánh Hội điều tra làm rõ. Qua điều tra, T đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm 2 chiếc điện thoại nói trên.

Theo kết luận định giá tài sản số: 15 ngày 01-6-2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện U Minh xác định giá trị của 2 chiếc điện thoại bằng 2.321.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã trả lại 2 chiếc điện thoại cho anh N và anh Th, các anh không có yêu cầu bồi thường gì về trách nhiệm dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 30/KS ĐT-KT ngày 04-10-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau truy tố Võ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đúng với nội dung bản cáo trạng nêu Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Võ Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự, phát biểu luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Văn T từ 9 đến 12 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Do anh N và anh Th đã nhận lại 2 chiếc điện thoại bị mất và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

Lời nói sau cùng bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau là đúng người, đúng tội, không oan, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hứa sẽ không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

 [2]. Xét về cấu thành tội phạm và tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị cáo Võ Văn T thực hiện:

Xét thấy, vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 30/5/2017 Võ Văn T thực hiện hành vi lén lút xuống ghe biển Phong Nhân chiếm đoạt 1 chiếc điện thoại di động hiệu Invens Knight màu trắng của anh Danh Minh N và 1 chiếc điện thoại hiệu I Phone 3 màu đen của anh Lư quốc Th là hành vi trộm cắp tài sản, vi phạm pháp luật hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phát tù từ sáu tháng đến ba năm”. Từ quy định trên nên hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Võ Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau truy tố để Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật, không oan cho bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của anh N và anh Th được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm cho người dân hoang mang, không an tâm lao động sản xuất.

Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên phải nhận thức được rằng tài sản có được là do sức lao động chân chính tạo ra, nhưng do bản tính tham lam, lười lao động, muốn thụ hưởng tài sản mà không cần phải bỏ công sức lao động hợp pháp nên bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật để thực hiện hành vi chiếm đoạt 2 chiếc điện thoại của anh N và anh Th một cách cố ý trực tiếp nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự do hành vi và hậu quả do mình gây ra.

[3]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và hình phạt được áp dụng đối với bị cáo:

Khi áp dụng hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét động cơ mục đích phạm tội, hành vi, hậu quả mà bị cáo gây ra, đồng thời cũng xem xét đến nhân thân của bị cáo trước khi phạm tội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự đó là trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa gây thiệt hại nên người bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản. Xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, năm 2010 bị đưa đi trường giáo dưỡng 24 tháng, năm 2016 bị Công an huyện U Minh xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không ăn năn hối cải, không quyết tâm cải sửa lỗi lầm nên Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng.

Xét thấy trong thời gian gần đây, tình hình tội phạm về trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện U Minh diễn ra phức tạp, có chiều hướng gia tăng, nhất là tội trộm cắp tài sản vào đêm khuya ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của người dân, nhân dân bất bình. Để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội cần buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù giam để nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: 2 chiếc điện thoại đã giao trả cho là là anh N và anh Th, các anh không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xét.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

[6]. Về quyền kháng cáo: Thông báo cho bị cáo và các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

 [1]. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Võ Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 

Xử phạt: Bị cáo Võ Văn T 1(một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

[2]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại hiệu Invens Knight màu trắng và chiếc điện thoại hiệu I Phone 3 màu đen cơ quan điều tra đã trả lại cho anh N và anh Th, hai anh không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xét.

 [3]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5]. Án xử sơ thẩm. Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất