Án lệ số 42/2021/AL ngày 12/03/2021 về quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Bản án dẫn chiếu
  • Tải về
Tải văn bản
  • Án lệ 42/2021/AL

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • Án lệ 42/2021/AL

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Án lệ 42/2021/AL

Tên Án lệ: Án lệ số 42/2021/AL ngày 12/03/2021 về quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài
Số hiệu: 42/2021/AL
Loại văn bản: Án lệ
Ngày thông qua:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem ngày thông qua. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Ngày công bố: 12/03/2021
Ngày áp dụng:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định công bố:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Quyết định công bố. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Nguồn án lệ: Đang cập nhật
Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Dân sự
Tóm tắt Án lệ

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
ÁN LỆ SỐ 42/2021/AL
1
Về quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng
trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 24
tháng 02 năm 2021 được công bố theo Quyết định số 42/QĐ-CA ngày 12
tháng 3 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Bản án thẩm số 54/2018/DS-ST ngày 16/11/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa về vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng
dịch vụ” giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Long T ông Nguyễn Hoàng S
với bị đơn là Công ty TNHH Khu du lịch V.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 9 phần “Nhận định của Tòa án”
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Trong hợp đồng theo mẫu giao kết với người tiêu dùng điều khoản lựa
chọn Trọng tài nước ngoài để giải quyết tranh chấp. Khi xảy ra tranh chấp,
người tiêu dùng khởi kiện ra Tòa án Việt Nam.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định người tiêu dùng không lựa chọn trọng tài
và có quyền lựa chọn Tòa án Việt Nam giải quyết.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 38 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010;
Điều 17 Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
Khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Khoản 5 Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của
Hội đồng Thẩm phána án nhânn tối caong dẫn thinh một số quy định
Luật Trọng tài thương mại.
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng theo mẫu thỏa thuận lựa chọn Trọng tài nước ngoài”;
“Người tiêu dùng”; “Lựa chọn Tòa án Việt Nam”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 08/12/2017, bản tự khai, Biên bản hòa giải và tại
phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Trần Đức P, trình bày:
1
Án l này do PGS.TS Đỗ Văn Đại, Trưởng khoa Lut Dân s Đại hc Lut Thành ph H Chí Minh, Thành viên
Hội đồng tư vấn án l đ xut.
2
Ngày 26/02/2017, bà Nguyễn Thị Long T và ông Nguyễn Hoàng S giao kết
Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 với ng ty TNHH Khu du lịch V.
Theo đó, giá trị hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ 388.110.000đ; tuần nghỉ:
Tuần thứ 16; Loại căn hộ nghỉ: Loại A.
Tính đến ngày 15/3/2017, Nguyễn Thị Long T, ông Nguyễn Hoàng S
đã đặt cọc 300.488.000đ.
Tại thời điểm giao kết hợp đồng, do thời gian eo hẹp nên T, ông S
không đọc kỹ hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ đã giao kết. Đến ngày 26/4/2017, sau khi
nhận được thư điện tử từ Công ty TNHH Khu du lịch V, bà Nguyễn Thị Long T,
ông Nguyễn Hoàng S xem klại hợp đồng đã giao kết thì thấy những điều
khoản của Hợp đồng không hợp , n đã chủ động đề nghị chấm dứt hợp
đồng, nhưng không được phía Công ty TNHH Khu du lịch V chấp nhận.
vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, bà Nguyễn Thị Long T ông
Nguyễn Hoàng S đã khởi kiện tại Tòa án với nội dung: Đề nghị Tòa án tuyên bố
Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 vô hiệu và hoàn
trả lại cho Nguyễn Thị Long T ông Nguyễn Hoàng S số tiền đã nộp
300.488.000đ.
Bởi những lý do sau:
- Công ty TNHH Khu du lịch V lừa dối khách hàng như mở hội thảo về
du lịch nhưng không thực hiện nội dung chương trình hội thảo; về chủ đầu tư dự
án là tỷ phú người Isarel, ông I; về vốn đầu tư để tạo tin tưởng cho những người
muốn mua sở hữu kỳ nghỉ ký hợp đồng và đặt cọc.
- Công ty TNHH Khu du lịch V quảng cáo sản phẩm được thiết kế theo
hình đã được giải thưởng Châu Á - Thái Bình Dương, nhưng khi xây dựng
không theo mô hình đã được quảng cáo; giữa hình quảng cáo hình
thực tế không như nhau; căn hộ du lịch chỉ thiết kế cho hai người, nhưng
quảng cáo căn hộ dành cho 5 người; dự án tọa lạc tại Nha Trang.
- Công ty TNHH Khu du lịch V vi phạm điều cấm của pháp luật doanh
nghiệp vốn đầu của người nước ngoài không được phép đưa người Việt
Nam ra nước ngoài; định đoạt tiền đặt cọc khi không thuộc sở hữu của mình.
- Tiến độ xây dựng đưa công trình vào hoạt động chính thức chậm so
với cam kết, gây thiệt hại cho những người đã mua sở hữu kỳ nghỉ.
Theo bản tự khai, biên bản hòa giải tại phiên tòa, đại diện theo y
quyền của bị đơn, bà Phạm Thị Kiều H, trình bày:
Ngày 26/02/2017, Công ty TNHH Khu du lịch V đã giao kết Hợp đồng sở
hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 với Nguyễn Thị Long T ông Nguyễn
Hoàng S. Hình thức nội dung của hợp đồng hoàn toàn hợp pháp. Người giao
kết hợp đồng đủ năng lực thẩm quyền, không bị ép buộc và đã tnguyện
vào hợp đồng này.
3
Nhng lý do mà nguyên đơn đưa ra làm căn c đ cho rng Hp đồng s hữu
kỳ ngh sPBRC-S-064621 hiu, Công ty TNHH Khu du lch V không đng ý.
Bởi lẽ:
Thứ nhất, nguyên đơn cho rằng Công ty lừa dối người tiêu dùng nhận
định sai lệch dựa trên ý kiến chủ quan. Công ty khẳng định không hề bịa đặt hay
cung cấp các thông tin sai sự thật tới người tiêu dùng. Công ty TNHH V 02
thành viên góp vốn gồm ông Dương Tuấn A ng ty E. Trong đó Công ty E
nằm trong các doanh nghiệp thuộc quyền kiểm soát sở hữu bởi ông I các
doanh nghiệp của ông. Như vậy, ông I một nhà đầu của Công ty, thực hiện
đầu tư thông qua các Công ty thuộc quyền kiểm soát của ông.
Vốn điều lệ đăng ban đầu là 105 tỷ đồng hiện tại 486 tỷ đồng.
Đây là vốn góp theo cam kết của nhà đầu tư vào Công ty dự án, phù hợp với các
quy định của pháp luật Việt Nam. Vốn đầu của dự án 300 triệu USD hoặc
thể cao hơn đó giá trị ước tính vốn đầu của toàn bộ dự án bao gồm
nhưng không giới hạn: tiền thuê đất, chi phí đầu tư, xây dựng, quản lý, vận hành
dự án, chi phí quản lý, văn phòng…
Thứ hai, tại buổi giới thiệu, Công ty đã giải thích rõ đây là hoạt động mua
kỳ nghỉ dưỡng, không phải mua bất động sản nên không có chuyện gây nhầm
lẫn về hợp đồng; khi làm việc với khách hàng Công ty giải thích ghi trong
hợp đồng là mua kỳ nghỉ thứ bao nhiêu, ở loại khách sạn nào.
Thứ ba, Công ty chúng tôi không thực hiện việc đưa khách hàng ra nước
ngoài, đây là, nếu khách hàng nghỉ dưỡng không thích trong nước thì thể
trao đổi với nhau các kỳ nghỉ với kháchng khác để ra nước ngoài nghỉ. Đây ch
hoạt động của khách hàng, Công ty chúng tôi không hề kinh doanh hoạt động
đưa người Việt Nam ra nước ngoài du lịch chỉ thực hiện hỗ trkhách hàng.
Thứ tư, về khoản tiền đặt cọc, pháp luật không hạn chế thỏa thuận về sử
dụng tiền cọc. Mục đích sử dụng tiền đặt cọc của Công ty không vi phạm điều
cấm của pháp luật.
Thứ năm, vtiến đxây dựng ngày Khai trương chính thức đã quy
định rõ tại Điều 8 của Hợp đồng, là 36 tháng kể từ ngày ban hành giấy phép xây
dựng cuối cùng của dự án được quyền gia hạn thêm 6 tháng. Hiện tại, Giấy
phép cuối cùng được cấp vào tháng 10/2018.
Nếu nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ đã giao kết,
phía bị đơn có thể xem xét giảm giá hoặc hỗ trợ một số quyền lợi khác.
Phát biểu tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha
Trang kết luận: Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã tuân thủ đúng trình tự,
thủ tục pháp luật tố tụng dân sự quy định trong quá trình giải quyết vụ án, tại
phiên tòa; đương sự thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của mình trong quá
trình tố tụng; thực hiện tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, để làm
4
việc Công ty THHH Khu du lịch V được phép giao dịch, chuyển nhượng
quyền sở hữu kỳ nghỉ hay không, đề nghị Hội đồng xét xtạm ngừng phiên tòa
để thu thập thêm tài liệu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cu c i liu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết qu tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét x nhn đnh:
[2] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang
đề nghị tạm ngừng phiên tòa để thu thập tài liệu xác định Công ty TNHH Khu
du lịch V được phép chuyển nhượng căn hộ, chuyển nhượng kỳ nghỉ khi
chưa hoàn thành dán hay không? Đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát
không cần thiết, đây không phải hợp đồng chuyển nhượng liên quan đến bất
động sản, hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực du lịch, thực chất hợp
đồng đặt cọc để được sở hữu kỳ nghỉ. Đến thời điểm xét xử, không văn bản
nào của quan thẩm quyền hạn chế quyền đặt cọc để sở hữu kỳ nghỉ của
Công ty TNHH Khu du lịch V. Do đó Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo
quy định chung.
[3] Ngày 17/12/2017, ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T khởi
kiện Công ty TNHH Khu du lịch V tại a án nhân dân thành phố Nha Trang,
yêu cầu tuyên bố Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017
hiệu buộc Công ty TNHH Khu du lịch V hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc
thanh toán 300.488.000đ. Đây khoản tiền ông Nguyễn Hoàng S
Nguyn Th Long T đã đặt cọc đ s hu k ngh t Công ty TNHH Khu du lch V.
[4] Tại phiên a, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa
án tuyên Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 vô hiệu
buộc Công ty TNHH Khu du lịch V hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc thanh
toán là 300.488.000đ.
[5] Như vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định “Hợp đồng
dịch vụ” được quy định tại Điều 513 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 14 Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
[6] Tại điều 12.3 của Hợp đồng sở hữu knghỉ số PBRC-S-064621 ngày
26/02/2017, các bên có thỏa thuận chọn cơ quan và phương thức giải quyết tranh
chấp là Trung tâm Trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) theo các quy tắc trọng tài
của SIAC có hiệu lực tại thời điểm giải quyết tranh chấp.
[7] Tuy nhiên, Điều 17 Luật Trngi thương mại vàng dẫn tại khoản 5
Điều 4 của Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định vthỏa thuận trọng tài không thể
thực hiện được:
[8] “Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về
thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng
hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật Trọng tài
5
thương mại nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa
chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp”.
[9] Hợp đồng sở hữu knghỉ số PBRC-S-064621 thuộc loại hợp đồng
soạn sẵn do nhà cung cấp dịch vụ đưa ra, soạn sẵn quy định thỏa thuận trọng tài,
nay nguyên đơn người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn trọng tài yêu cầu
Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang giải quyết phù hợp Điều 38 Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, Điều 17 Luật Trọng tài thương mại hướng dẫn
tại khoản 5 Điều 4 của Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Tòa án nhân dân thành
phố Nha Trang thụ lý và giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo khoản 3
Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân scòn trong thời hiệu khởi
kiện quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 184 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[10] Xét Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017
được ký kết giữa Công ty TNHH Khu du lịch V với ông Nguyễn Hoàng S và bà
Nguyễn Thị Long T, thấy rằng: Người trực tiếp kết hợp đồng với cách đại
diện cho Công ty TNHH Khu du lịch V ông Hữu B, Trưởng phòng Tài
chính Văn phòng đại diện Công ty TNHH Khu du lịch V tại Thành phố Hồ Chí
Minh ông Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Thị Long T. Ông Hữu B không
phải người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Khu du lịch V nhưng
tại thời điểm giao kết, đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Khu du lịch V
đã văn bản ủy quyền ngày 01/02/2017 cho ông Hữu B được thay mặt
người đại diện theo pháp luật kết hợp đồng theo đúng trình tự, thủ tục nội
dung do pháp luật quy định. Ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
[11] Theo nội dung Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày
26/02/2017, nguyên đơn đã đăng mua kỳ nghỉ tuần thứ 16, loại căn hộ nghỉ
dưỡng A; thời gian bắt đầu từ năm ngày khai trương chính thức đến hết
thời hạn Dự án. Ông Nguyễn Hoàng S Nguyễn Thị Long T thể bán
hoặc chuyển nhượng cho người khác hoặc được trao đổi kỳ nghỉ tại một số nơi
trên thế giới (Quyền nghỉ dưỡng y chọn). Người mua phải nộp tiền nhiều đợt
theo tiến độ xây dựng dự án. Cụ thể, Nguyễn Thị Long T và ông Nguyễn
Hoàng S đã thanh toán được 03 đợt tiền đặt cọc với số tiền 310.488.000đ (được
ưu đãi 10.000.000đ).
[12] Ngày khai trương chính thức được xác định theo Điều 8 của Hợp
đồng. Đó là, trong vòng 36 tháng kể từ ngày ban hành giấy phép xây dựng cuối
cùng và được gia hạn thêm 6 tháng, Công ty sẽ gửi thông báo hoàn thành cho
khách hàng.
[13] Ngoài ra, hàng năm kể từ ngày khai trương chính thức, khách hàng
phải thanh toán phí duy thay phí quản theo Điều 3 của Phụ lục C kèm theo
hợp đồng, quy định quyền, nghĩa vụ các bên, các điều khoản về thanh toán, đặt
cọc, chuyển nhượng và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
6
[14] Các bên đã giao kết hợp đồng sở hữu knghỉ tự do, tnguyện cam
kết, thỏa thuận, nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức hội hiệu lực thực hiện đối với các bên phải được chủ thể khác tôn
trọng và là căn cứ để giải quyết tranh chấp.
[15] Hội đồng xét xử nhận thấy:
[16] Công ty TNHH Khu du lịch V được Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh
Hòa cấp Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp ngày 05/02/2013, đăng ký thay
đổi lần 4 ngày 08/4/2016 sửa đổi lần 5 ngày 15/10/2018; Giấy chứng nhận
đầu tư số 371022000419 ngày 05/02/2013 và đã thay đổi đăng ký lần thứ 3 ngày
27/01/2015 để đầu tư, thực hiện dự án Khu nghỉ dưỡng cao cấp ALMA tại các lô
đất D7a2, TT4, X6 thuộc Khu du lịch Bắc bán đảo R, huyện C, Khánh Hòa.
[17] Quá trình đầu thực hiện dự án, Công ty TNHH Khu du lịch V
đã tchức các buổi giới thiệu về hình nghỉ dưỡng tại một số địa phương,
trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh.
[18] Nguyên đơn một trong số nhiều khách hàng được Công ty TNHH
Khu du lịch V mời tham gia sự kiện ngày 26/02/2017.
[19] Tại buổi sự kiện, nguyên đơn đã trực tiếp giao kết Hợp đồng sở hữu
kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 với Công ty TNHH Khu du lịch V.
tính đến ngày 15/3/2017 nguyên đơn đã thanh toán tiền đặt cọc
310.488.000đ, trong đó được hưởng chính sách ưu đãi 10.000.000đ, số tiền thực
nộp là 300.488.000đ.
[20] Trong thời gian chờ ngày khai trương chính thức, nguyên đơn cho
rằng Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 nhiều
nội dung quy định không phù hợp, gây thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn
nên đã nhiều lần gặp phía Công ty TNHH Khu du lịch V nhằm thương thảo
chấm dứt hợp đồng, nhưng không được phía Công ty TNHH Khu du lịch V đáp
ứng. vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tuyên bHợp
đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 hiệu với những
do bị lừa dối, bị nhầm lẫn, vi phạm điều cấm của pháp luật, chậm tiến độ đưa
công trình vào sử dụng.
[21] Phát biểu lời bảo vệ quyền lợi cho bị đơn, vị luật sư cho rằng những lý
do phía nguyên đơn nêu ra làm căn cứ đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng sở hữu
kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 vô hiệu như bị lừa dối, bị nhầm lẫn,
vi phạm điều cấm của pháp luật không thể chấp nhận bởi những lý do mà phía bị
đơn đã u ra ở phần trên, cùng bản luận cđã gửi cho Hội đồng xét xử.
[22] Xét:
[23] Trước hết, cần nhận thức rằng đây một khái niệm sở hữu mới tại
Việt Nam, trong đó người sở hữu được thực hiện quyền của mình trong khoảng
thời gian nhất định (07 ngày) tại nơi đã mua knghỉ. không đồng nghĩa với
quyền sở hữu bất động sản. Sở hữu bất động sản vẫn thuộc chủ đầu là Công
ty TNHH Khu du lịch V trong thời gian được cấp giấp phép hợp lệ.
7
[24] Như vậy, sở hữu kỳ nghỉ mà ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị
Long T đã đặt cọc để giữ chỗ được coi một loại (quyền) tài sản hình thành
trong tương lai. Nhưng sau thời điểm giao kết hợp đồng, khi Khu du lịch được
đưa vào sử dụng chính thức mới thuộc sở hữu của ông Nguyễn Hoàng S
Nguyễn Thị Long T. Việc các bên giao dịch đặt cọc, giữ chỗ để được sở hữu kỳ
nghỉ (thực hiện hợp đồng) phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 108, Điều 328 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
[25] Nguyên đơn cho rằng, Công ty TNHH Khu du lịch V lừa dối vchủ
đầu tư dự án tỷ phú người Isarel, ông I về vốn đầu tư. Nhưng qua tài liệu
do bị đơn cung cấp đã được kiểm tra công khai, thể hiện: Công ty TNHH V
02 thành viên góp vốn gồm Công ty E ông Dương Tuấn A. Trong đó,
ng ty E nằm trong c doanh nghip thuộc quyn kiểm soát và sở hữu bởi ông I
và các doanh nghiệp của ông. Như vậy, ông I là một nhà đầu tư (không phải chủ
đầu tư) của Công ty, thực hiện đầu thông qua các Công ty thuộc quyền kiểm
soát của ông thật. Phía nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ để chứng
minh rằng, Công ty TNHH Khu du lịch V đã lừa dối bằng việc khẳng định ông I
là chủ đầu tư dự án.
[26] Vốn điều lệ đăng ký ban đầu là 105 tỷ đồng, vốn đầu thực hiện dự
án theo giấy đăng doanh nghiệp sửa đổi lần 5 ngày 15/10/2018 426 tỷ
đồng. Đây vốn góp theo cam kết của nhà đầu vào công ty dán, phù hợp
với các quy định của pháp luật Việt Nam, chưa bao gồm nhưng không giới hạn:
tiền thuê đất, chi phí đầu tư, xây dựng, quản lý, vận hành dự án và chi phí khác.
[27] Như vậy, mức vốn đầu dự kiến của dự án 300 triệu USD giá
trị ước tính tổng mức vốn đầu tư của toàn dự án, không phải là vốn điều lệ.
[28] Nguyên đơn nêu lý do: Phía bị đơn quảng cáo sản phẩm được thiết kế
theo mô hình đã được giải thưởng, nhưng khi xây không nhình đã được
giải thưởng; giữa hình quảng cáo hình thực tế không giống nhau. Các
tạp chí phát hành để quảng bá sản phẩm không trung thực.
[29] Tuy nhiên, vấn đề thiết kế mô hình đã được sự chấp nhận thay đổi của
UBND tỉnh Khánh Hòa tại Công văn số 3590/UBND-XDNĐ ngày 27/5/2016
đã được thông báo đến khách sở hữu kỳ nghỉ.
[30] Việc quảng cáo trên ấn phẩm có giấy phép xuất bản hợp pháp và tính
đến ngày xét xử thẩm chưa văn bản nào của quan thẩm quyền hủy
bỏ hoặc thu hồi các ấn phẩm này.
[31] Khi tham gia sự kiện chính thức giao kết hợp đồng, người tham
gia giao kết phải biết mình tham gia sự kiện gì, ký hợp đồng gì, nơi mình đầu
nằm đâu? Địa điểm nơi xây dựng Khu du lịch được Công ty TNHH Khu du
lịch công khai; trên các tài liệu, giấy tờ giao dịch cũng thể hiện địa điểm của khu
ALMA Nha Trang. Không thể nói Công ty TNHH Khu du lịch V sử dụng tên
gọi ALMA Nha Trang hay tmời hội thảo lại chuyển sang giới thiệu hình
và sản phẩmmột sự lừa dối khách hàng được.
8
[32] Từ đó, không chứng cứ cho thấy một trong các bên giao kết hợp
đồng bị lừa dối như quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do vậy,
Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 các phụ lục
kèm theo hợp đồng phát sinh hiệu lực.
[33] Quy định tại khoản 4.4 Điều 4 của Hợp đồng về Quyền nghỉ dưỡng
tùy chọn, Mục 2 Phụ lục B điều khoản điều kiện của các quyền nghỉ dưỡng
thực chất trao đổi shữu knghỉ tại các Khu nghỉ dưỡng khác trên toàn thế
giới, hoạt động dưới cùng cách thức như tại Khu nghỉ dưỡng, ng tham gia
mạng lưới trao đổi.
[34] Thực tế, nếu khách nghỉ dưỡng không nghỉ dưỡng tại Khu nghỉ
dưỡng mình đã mua sở hữu kỳ nghỉ thì thể trao đổi kỳ nghỉ với khách nghỉ
dưỡng khác, kể cả nghỉ dưỡng nước ngoài. Đây hoạt động của khách ngh
dưỡng lựa chọn hội nghỉ dưỡng thay thế từ một loạt các hội nghỉ dưỡng
mà Công ty trao đổi có thể cung cấp. Công ty TNHH Khu du lịch V không kinh
doanh hoạt động đưa người Việt Nam ra nước ngoài du lịch, mà chỉ thực hiện hỗ
trợ khách nghỉ dưỡng trong việc kết nối các địa điểm du lịch. Trong số các
khách nghỉ dưỡng, đã nhiều người thực hiện trao đổi kỳ nghỉ thông qua Quyền
nghỉ dưỡng tùy chọn họ trực tiếp liên hệ nơi nghỉ dưỡng thay thế m các
thủ tục đi du lịch nước ngoài do Công ty thu xếp với các bên liên quan để
Khách nghỉ dưỡng được các nhà cung cấp dịch vụ nghỉ dưỡng khác cung cấp
dịch vụ nghỉ dưỡng tại nơi khách nghỉ dưỡng lựa chọn.
[35] Việc hỗ trợ, giúp khách nghỉ dưỡng của Công ty lựa chọn nơi trao
đổi kỳ nghỉ các thủ tục để nhà cung cấp dịch vụ nghỉ dưỡng khác cung cấp
dịch vụ nghỉ dưỡng cho khách nghỉ dưỡng không thể coi một mắt, khâu trong
việc đưa khách nghỉ dưỡng ra nước ngoài như nguyên đơn lập luận. Phía nguyên
đơn cũng kng đưa ra được chng cứ chng minh Công ty TNHH Khu du lịch V
đã đưa người ra nước ngoài bất hợp pháp.
[36] Như vậy, không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh Công ty THHH
Khu du lịch V tự mình đưa khách mua sở hữu kỳ nghỉ đi du lịch nước ngoài.
[37] Theo quy định tại khoản 5.2 Điều 5 Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ số
PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017, khoản 2.2 Điều 2 Phụ lục C kèm theo Hợp
đồng shữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 quy định vtiền đặt
cọc, tiến độ thanh toán thì khoản tiền ông Nguyễn Hoàng S và Nguyễn
Thị Long T đã thanh toán tiền đặt cọc. Khi chỉ khi sau ngày khai trương
chính thức số tiền đã nộp mới chuyển thành một phần của khoản thanh toán.
[38] Như vậy, khoản tiền đặt cọc của ông Nguyễn Hoàng S, Nguyễn
Thị Long T là nhằm thực hiện hợp đồng theo quy định tại Điều 328 Bộ luật Dân
sự năm 2015.
[39] Số tiền đặt cọc Công ty THHH Khu du lịch V nhận được từ Khách
nghỉ dưỡng (không phải là kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị) được Công ty
định đoạt bằng hình thức đầu vào dán các chi phí hợp không bị pháp
luật cấm, không hạn chế thỏa thuận của các bên về việc sử dụng tiền đặt cọc.
9
Trong trường hợp phải hoàn lại hoặc bồi thường vì do nào đó, người ta tính
giá trị tiền cần hoàn trả, bồi thường bao nhiêu, không ai yêu cầu trả đúng
những đồng tiền đã đặt cọc như ý kiến nêu ra từ đại diện của nguyên đơn.
[40] Ngay phần trang bìa của Hợp đồng đã xác định “sở hữu kỳ nghỉ”,
Điều 3 Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ s PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 ghi
“Khách nghỉ dưỡng, theo hợp đồng này đồng ý thuê phòng từ Công ty…” và
trong Phụ lục A phần III, IV nguyên đơn cũng xác nhận đặt chỗ loại căn hộ nghỉ
dưỡng, tuần nghỉ dưỡng khoản thanh toán tiền thuê phòng không phải
sở hữu bất động sản, hay thanh toán tiền bất động sản. Những quy định như
vậy trong hợp đồng, không thể bị nhầm lẫn với sở hữu bất động sản được. Lý do
nguyên đơn nêu ra bị nhầm lẫn sở hữu bất động sản là không thể chấp nhận.
[41] Nguyên đơn cho rằng, khi tham gia kết hợp đồng, nhân viên tiếp
thị của Công ty THHH Khu du lịch V đã không cho nguyên đơn thời gian hợp lý
để nghiên cứu nội dung hợp đồng là vi phạm Điều 17 của Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc dành thời gian nghiên cứu hợp đồng quyền
của người tiêu dùng, việc nguyên đơn không sử dụng quyền này xem nt
bỏ quyền của mình. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như Bộ luật
Dân sự không quy định về việc nếu tổ chức, nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ không dành thời gian hợp lý để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng thì
hợp đồng sẽ hiệu. Do vậy, việc nguyên đơn đã tự nguyện kết hợp đồng là
thật tại phiên tòa, đại diện cho nguyên đơn vẫn khẳng định việc giao kết
hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện. Vì thế, hợp đồng phát sinh hiệu lực.
[42] V tiến đ thc hiện d án: Ny khai trương cnh thức đưc xác
định theo Điều 8 của Hợp đồng là trong ng 36 tháng k t ngày ban hành
giy phép xây dựng cui ng và được gia hn thêm 6 tháng (nếu có), ng
ty s gửi tng báo hoàn tnh cho kch hàng. Hin nay, trong h sơ th
hin 2 giy phép y dựng:
- Giấy phép xây dựng số 67/GPXD-SXD ngày 28/4/2017.
- Giấy phép xây dựng số 133/GPXD-SXD ngày 24/10/2018.
[43] Như vậy, tính đến ngày xét xử, nếu căn cứ vào Giấy phép xây dựng
ngày 28/4/2017 thì vẫn chưa quá 36 tháng kể từ ngày cấp giấy phép xây dựng.
Trong khi đó, ngày 24/10/2018, Công ty TNHH Khu du lịch V tiếp tục được cấp
giy phép xây dựng. Do đó, khôngn cứ cho rằng Công ty TNHH Khu du lịch V
đã vi phạm tiến độ xây dựng, chậm đưa công trình vào hoạt động, vi phạm thời
hạn bàn giao kỳ nghỉ cho các chủ sở hữu.
[44] Từ những lập luận và phân tích nêu trên, thấy rằng, Hợp đồng sở hữu
kỳ nghỉ sPBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 các Phụ lục kèm theo không
thuộc các trường hợp giao dịch dân sự hiệu được quy định từ Điều 122 đến
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó không áp dụng Điều 131 Bộ luật Dân
sự năm 2015 để xử lý như yêu cầu của phía nguyên đơn.
[45] Đối với yêu cầu trả lại số tiền đặt cọc.
10
[46] Xét thấy: Bản chất giấy xác nhận đặt chỗ hợp đồng đặt cọc. Theo
thỏa thuận thì số tiền đặt cọc trên schuyển thành số tiền thanh toán đợt 1 khi
đến ngày khai trương chính thức. Như vậy, tại thời điểm xác lập Giấy xác nhận
đặt chỗ thì số tiền trên là tiền đặt cọc để đặt chỗ nhằm đảm bảo thực hiện hợp
đồng dịch vụ. Hợp đồng đặt cọc này không trái pháp luật không trái đạo đức
hội. Mặt khác, Tại mục 4.1 của Hợp đồng cũng quy định: “Khách nghỉ
dưỡng, theo Hợp đồng này, cam kết không hủy ngang đồng ý đặt chỗ để
hưởng Quyền nghỉ dưỡng theo các điều khoản điều kiện của Hợp đồng này.
Để đt chỗ, khách nghỉ dưỡng sẽ thanh tn tiền đặt cọc cho Công ty theo Điều 5.2
Phụ lục C”. Bị đơn không vi phạm hợp đồng, nguyên đơn cũng không chứng
cứ chứng minh bị đơn vi phạm hợp đồng đặt cọc; các bên đã thỏa thuận Hợp
đồng không bị hủy ngang; “Hợp đồng sở hữu kỳ nghỉ” không bị vô hiệu như yêu
cầu của nguyên đơn, do đó, yêu cầu hoàn trả stiền đặt cọc 300.488.000đ của
nguyên đơn là không có căn cứ.
[47] Về án phí: Do yêu cầu của Nguyễn Thị Long T ông Nguyễn
Hoàng S không được chấp nhận, nên phải chịu án phí 300.000đ đối với u cầu
tuyên bố Hợp đồng hiệu 15.024.400đ án phí dân sự thẩm phần yêu cầu
hoàn trả 300.488.000đ. Như vậy, ông Nguyễn Hoàng S và bà Nguyễn Thị Long T
phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 15.324.400đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các điều 122, 123, 124, 125, 126, 127, 128, 129, 328, 401, 513
Bộ luật Dân snăm 2015; Điều 14, Điều 42, Điều 43 Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng; Điều 74 Luật Thương mại; Điều 17 Luật Trọng tài thương mại;
Mục 4 Chương IV Luật Du lịch; Điều 147, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 26, khoản 3 Điều 27 Ngh quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quc hội quy
định về mc thu, miễn, giảm, thu, nộp, qun lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, Nguyễn Thị
Long T ông Nguyễn Hoàng S về tuyên bố Hợp đồng sở hữu k nghỉ số
PBRC-S-064621 ngày 26/02/2017 được giao kết giữa Nguyễn Thị Long T
ông Nguyễn Hoàng S với Công ty TNHH Khu du lịch V hiệu hoàn trả số
tiền đặt cọc đã thanh toán là 300.488.000đ vì không có căn cứ.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Long T ông Nguyễn Hoàng S phải nộp
15.324.400đ án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho Nguyễn Thị Long T ông Nguyễn Hoàng S 7.512.000đ
tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2016/0008400 ngày 01/02/2018 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.
Báo cho nguyên đơn, bị đơn biết, được quyền kháng cáo bản án thẩm
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
11
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[9] Hợp đồng shữu kỳ nghỉ số PBRC-S-064621 thuộc loại hợp đồng
soạn sẵn do nhà cung cấp dịch vụ đưa ra, soạn sẵn quy định tha thuận trọng i,
nay nguyên đơn người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn trọng tài yêu cầu
Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang giải quyết phù hợp Điều 38 Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, Điều 17 Luật Trọng tài thương mại hướng dẫn
tại khoản 5 Điều 4 của Nghquyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Tòa án nhân dân thành
phố Nha Trang thụ lý và giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo khoản 3
Điều 26, khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự còn trong thời hiệu khởi
kiện quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 184 Bộ luật Tố tụng
dân sự”.
Tải về
Án lệ 42/2021/AL Án lệ 42/2021/AL

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Án lệ 42/2021/AL Án lệ 42/2021/AL

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Án lệ cùng lĩnh vực

Án lệ mới nhất