Án lệ số 41/2021/AL ngày 12/03/2021 về chấm dứt hôn nhân thực tế

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Bản án dẫn chiếu
  • Tải về
Tải văn bản
  • Án lệ 41/2021/AL

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • Án lệ 41/2021/AL

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Án lệ 41/2021/AL

Tên Án lệ: Án lệ số 41/2021/AL ngày 12/03/2021 về chấm dứt hôn nhân thực tế
Số hiệu: 41/2021/AL
Loại văn bản: Án lệ
Ngày thông qua:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem ngày thông qua. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Ngày công bố: 12/03/2021
Ngày áp dụng:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định công bố:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Quyết định công bố. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Nguồn án lệ: Đang cập nhật
Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Dân sự
Tóm tắt Án lệ

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
ÁN LỆ SỐ 41/2021/AL
1
Về chấm dứt hôn nhân thực tế
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23
tháng 02 năm 2021 được công bố theo Quyết định số 42/QĐ-CA ngày 12
tháng 3 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Bn án n sự pc thẩm s 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 ca Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế
chiai sản chung” tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn là ch Trần Thị Trọng P1
với bị đơn anh Trần Trọng P2 anh Trần Trọng P3; người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan gồm 06 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 3, 4 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Nam nchung sống với nhau như vchồng, không đăng kết hôn
nhưng sau đó họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người chung sống với nhau như vợ chồng với
người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên quan hệ hôn nhân thứ hai đều hôn
nhân thực tế.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 651 Bộ luật
Dân sự năm 2015);
- Ngh quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hi v việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Ngh quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đng Thẩm pn
Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Từ khóa của án lệ:
“Hôn nhân thực tế”; “Chấm dứt hôn nhân thực tế”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 08/10/2004 các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án - chị Trần Thị Trọng P1 (do bà Trần Thị S đại diện theo uquyền
cho nguyên đơn) trình bày:
1
Án l này do PGS.TS Đỗ Văn Đại, Trưởng khoa Lut Dân s Đại hc Lut Thành ph H Chí Minh, Thành viên
Hội đồng tư vấn án l đ xut.
2
Năm 1969, ông Trần Thế T1 chung sống với Thị T2 sinh được 02
người con là Trần Trọng P2 và Trn Trng P3. Dou thuẫn vợ chồng nên T2
đã bỏ đi vào Vũng Tàu sinh sống và kết hôn với người khác. Năm 1985, ông T1
chung sống với bà Trần Thị S có con chung là Trần Thị Trọng P1.
Năm 1987, U ban nhân dân th xã K đã cp cho ông T1 din tích
8.500m
2
đt vườn tại phưng Q (nay phưng D), th xã K. Sau khi được
cp đất, ông T1 và bà S vẫn đang ti nhà cha m bà S nên ch đến đ trng
cây trên phn đất đã được cp. Năm 1993, ông T1 có “đơn xin giao đt xây
dng nhà có nội dung gia đình ông 05 ngưi hin đang nhờ nhà cha
mẹ vợ đ ngh giải quyết xin lô đất để làm nhà ở; sau đó, ông T1 và bà S
đã m nhà trên phn đt này. Năm 2000, ông T1 và bà S li có đơn xin
xác nhn quyền s hu nhà th hin nhà làm trên din tích đt nêu trên
là của ông và bà S. Ngày 26/3/2003 (AL) ông T1 chết không để li di chúc,
toàn b tài sn do anh P2 và anh P3 qun lý sdng.
Ngày 08/10/2004, chị P1 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của
ông T1 để lại. Tại bản tự khai ngày 15/4/2009 chị P1 rút yêu cầu chia di sản đối
với heo, gà, ba ba tủ thờ đề nghị Toà xem xét, đo đạc lại diện tích đất,
không yêu cầu định giá lại.
* Trần Thị S cũng đơn yêu cầu chia tài sản chung giữa bà ông
Trần Thế T1. Theo bà S trình bày: Trong thời gian chung sống với ông T1, bà và
ông T1 tạo lập được khối tài sản chung gồm 01 ngôi nhà cấp 4 trên diện
tích 36m
2
nằm trên tổng diện tích đất 8.500m
2
(nay còn lại 6.403m
2
), 01 xe máy
Trung Quốc, 02 máy bơm nước, 450kg ri, 05 con heo, 70 con gà, 22 con thỏ,
01 hồ cá, 01 tủ trà đề nghị bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bà. Tại bản tự
khai ngày 15/4/2009 S yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung giữa
ông T1, đồng thời chia di sản tha kế ca ông T1 cho bà, ch P1, anh P2, anh P3
đối với diện tích đất còn lại, kể cả diện tích đất mà anh P3 anh P2 đã bán cho
ông L và ông C.
* Bị đơn là anh Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3 trình bày:
Tài sản trên là do ông T1 và hai anh tạo lập được, bà S không có công sức
n không đồng ý chia cho bà S. Vyêu cầu chia thừa kế cho chị P1 thì anh P2
anh P3 yêu cầu trưng cầu giám định ADN để xác định hàng thừa kế theo quy
định của pháp luật.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Thị T2 trình bày: và ông T1 kết hôn năm 1969 (có giấy đăng
nhưng bị mt). Bà ông T1 có 02 con chung là anh P2 và anh P3. m 1982,
bà bỏ vào Vũng Tàu và sinh sng vi ông Trn Sinh D có 03 con chung. Năm 1985,
ông T1 bà S chung sống với nhau đến năm 2003 thì ông T1 chết, hai người
cũng một số tài sản chung. Nếu được hưởng thừa kế di sản của ông T1 thì
phần của bà được chia sẽ cho anh P2, anh P3.
3
- Ông Chu Đình M trình bày: Khi ông T1 còn sống có vay của ông 8 triệu
đồng. Anh P2, anh P3 đã trả được hết cho ông, nay ông không có yêu cầu gì, đề
nghị Toà án giải quyết theo quy định.
- Bà Lâm Thị H trình bày: Năm 2002, bà S có vay của bà 17 triệu đồng để
sửa nhà và cưới vợ cho anh P3. Sau đó, bà S trả được 8 triệu đồng, nay bà S còn
nợ 9 triệu đồng, đề nghị Toà án buộc bà S trả lại số tiền 9 triệu đồng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Văn L khai: Năm 1999,
anh P2 và anh P3 có nhượng cho anh 01 lô đất rộng 5m i 36m diện tích 180m
2
,
anh đã trả đ tiền nhận đt sdụng, nay đ ngh tiếp tục được sdụng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 04/2009/DSST ngày 29/10/2009, Tòa án
nhân dân tỉnh Kon Tum tuyên xử:
Căn cứ khoản 5 Điu 25 B luật Ttụng n s. Chp nhn đơn khi kin
Chia thừa kế của chị Trần Thị Trng P1 và đơn xin “Chia tài sản chung và chia di
sn tha kế ca bà Trần Thị S đề ngày 08/10/2004 được bsung ngày 15/4/2009.
Căn cứ các điều 634, 636, 637, 640, 678, 679, 686; khoản 2 Điều 688,
Điều 738, Điều 739, Điều 743 Điều 238 Bộ luật Dân sự năm 1995, điểm b,
khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai. Xử:
Trn Thị S được chia đt có diện tích 3.201,5m
2
trị g 155.500.000đ ở
506/25 P, t 1, phưng D, thành phK (tr din tích mương nưc) có t cận như sau:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 37,66m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 37,66m.
Phía Nam giáp đất anh K dài 85m.
Phía Bắc giáp đất bà S dài 85m.
Và 01 lô đất có diện tích đất 800,37m
2
(đã trừ mương nước) có tứ cận:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 9,41m.
Phía Nam giáp đất bà S dài 85m.
Phía Bắc giáp nhà anh P3 dài 85m. Tại số 506/25 P, thành phố K, trị giá
38.875.000đ.
Bà S có trách nhiệm trả cho chị Lâm Thị H số tiền 9.000.000đ.
Anh Trn Trng P3 được chia 01 lô đt s506/25 P, png D, thành phK
din tích 800,37m
2
(đã trừ diệnch mương nước) trgiá 38.875.000đ t cận:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 9,41m.
Phía Nam giáp đất bà S dài 85m.
Phía Bắc giáp đất chị P1 dài 85m.
4
Anh P3 được sở hữu một căn nhà gồm 01 nhà chính, 01 nhà phụ tổng diện
tích là 54,64m
2
trị giá 9.027.022đ, 01 xe máy Trung Quốc trị giá 5 triệu đồng, 02
máy bơm nước trị giá 800.000đ 450kg ri trị giá 5 triệu đồng. Tổng cộng
19.827.022đ.
Anh P3 phải trả cho bà S 8.828.628đ.
* Chị Trần Thị Trọng P1 được chia một đất diện tích 800,37m
2
ã
trừ diện tích mương nước) trị g38.875.000đ tại 506/25 P, phường D, thành
phố K có tứ cận:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 9,41m.
Phía Nam giáp đất, nhà anh P3 dài 85m.
Phía Bắc giáp đất anh P2 dài 85m.
Chị P1 phải trả cho anh P3 4.959.372đ; trả cho bà S 1.875.000đ.
* Anh Trần Trọng P2 được chia 01 đất diện tích 800,37m
2
(đã trừ diện
tích ơng nước) trị giá 38.875.000đ tại 506/25 P, tổ 1, phường D, thành phố K,
có tứ cận:
Phía Đông giáp hẻm P rộng 9,41m.
Phía Tây giáp lô cao su rộng 9,41m.
Phía Nam giáp đất chị P1 dài 85m.
Phía Bắc giáp đất ông T dài 85m.
Anh P2 có trách nhiệm trcho bà S 1.875.00, trcho anh P3 4.959.372đ.
Trần Thị S, anh Trần Trọng P2, anh Trần Trọng P3 chị Trần Thị
Trọng P1 quyền đến quan thẩm quyền làm thủ tục đề nghị cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí thông báo quyền
kháng cáo.
Ngày 11/11/2009, bị đơn các anh Trần Trọng P2, Trần Trọng P3 kháng
cáo đề nghị bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 12/11/2009, người quyền, nghĩa vụ liên quan Thị T2
kháng cáo đề nghị bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Căn cứ vào cáci liệu, chứng ctại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa
phúc thẩm, lời trình y của các bên đương sự kết quả tranh luận tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Thị T2 chung sống với ông Trần Thế T1 từ năm 1969 2 con
chung Trần Trọng P2 Trần Trọng P3, đến năm 1982 T2 vào Rịa -
Vũng Tàu chung sng với ông Trần Sinh D từ đó đến nay và đã có 3 con chung.
5
[2] Từ năm 1985 ông Trần Thế T1 Trần Thị S chung sống với nhau
có con chung là Trần Thị Trọng P1 cho đến năm 2003 thì ông T1 chết.
[3] Xét Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng kết hôn, đến
năm 1982 T2 đã bvào Vũng Tàu lấy ông D con chung từ đó đến nay
quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với T2 đã chấm dứt từ lâu nên không
còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại
như án sơ thẩm xử là đúng.
[4] Xét sau khi bà T2 không còn sống chung vi ông T1 t năm 1985 ông T1
sống chung với S cho đến khi ông T1 chết 1 con chung, tài sản chung
hợp pháp, án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung
và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.
[5] Theo yêu cầu của anh P2, anh P3 đề nghị giám định ADN để xác định
chị P1 có phải con ông T1 không: vấn đề này đã được trưng cầu giám định,
nhưng hiện nay khoa học nước ta chưa ch được nhân ADN từ hài cốt ông T1
nên không giám định được, tuy nhiên trước đây các anh Trần Trọng P2, Trần
Trọng P3, Thị T2 ng đã lời khai thừa nhận chị Trần Thị Trọng P1 là
con ruột của ông Trần Thế T1 (BL 52, 53, 56) là phù hợp với lời khai của chị P1
S các chứng cứ khác như giấy khai sinh, lời khai các nhân chứng.
vậy án thẩm chấp nhận chị P1 được hưởng thừa kế di sản của ông T1
căn cứ.
[6] Xét năm 1987 ông Trần Thế T1 được Uỷ ban nhân dân thịK cấp
đất vườn tại phường Q (nay phường D) thành phố K diện tích 8.500m
2
,
hiện nay trên đất đã 01 căn nhà cấp 4 do ông T1 S xây dựng và một
số tài sản chung khác.
[7] Xét trong quá trình sử dụng lô đất nói trên theo lời khai của các đương
sự cũng như qua xác minh thấy ông T1 các con của ông đã cắt bán cho một
số người, đồng thời trên đất còn công trình kênh mương thuỷ lợi đi qua nên
diện tích đất không còn như cũ. Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ vào
ngày 12/5/2005 có sơ đồ kèm theo thì diện tích đất gia đình ông T1 đang quản lý
5.610m
2
540m
2
anh P2 bán cho anh L, ông C thì tổng diện tích 6.150m
2
từ đó cho đến ngày xử thẩm (ngày 29/10/2009) cấp thẩm không tiến hành
mời địa chính đo đạc lại để xác định chính xác diện tích thực tế của đất đang
tranh chấp hiện tại còn bao nhiêu m
2
, năm 2009 bà S cũng đã có đơn yêu cầu đo
đạc lại đất, nhưng cấp thẩm không tiến hành đo lại mà vội chấp nhận theo lời
của bà S, chị P1, anh P3, anh P2 rằng diện tích đất ông T1, bà S tạo lập hiện còn
lại 6.403m
2
đcắt chia chưa đảm bảo tính chính c sẽ dễ dẫn đến khó
khăn ách tắc trong khi thi hành án. Đồng thời cấp thẩm ng chưa yêu cầu
anh P2 đến đất tranh chấp để đo đạc xác định vị trí của đất diện tích
3.000m
2
anh P2 cho rằng anh mua của ông A để xem xét sở hay
không, những vấn đề này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được do đó cần
huỷ án sơ thẩm để giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
[8] Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
6
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
- Huỷ Bản án dân sự thẩm số 04/2009/DSST ngày 29/10/2009 của Toà
án nhân dân tỉnh Kon Tum.
- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum để giải quyết lại vụ
án theo thủ tục chung.
- Trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho các đương sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[3] Xét bà Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến
năm 1982 T2 đã bvào Vũng Tàu lấy ông D con chung từ đó đến nay
quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với T2 đã chấm dứt từ lâu nên không
còn nghĩa vụ với nhau nên T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại
như án sơ thẩm xử là đúng.
[4] Xét sau khi bà T2 không còn sống chung vi ông T1 tm 1985 ông T1
sống chung với S cho đến khi ông T1 chết 1 con chung, tài sản chung
hợp pháp, án thẩm công nhận hôn nhân thực tế nên được chia tài sản
chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ”.
Tải về
Án lệ 41/2021/AL Án lệ 41/2021/AL

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Án lệ 41/2021/AL Án lệ 41/2021/AL

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Án lệ cùng lĩnh vực

Án lệ mới nhất