Án lệ số 38/2020/AL ngày 02/10/2020 về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân chia bằng bản án có hiệu lực pháp luật

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Bản án dẫn chiếu
  • Tải về
Tải văn bản
  • Án lệ 38/2020/AL

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

  • Án lệ 38/2020/AL

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Án lệ 38/2020/AL

Tên Án lệ: Án lệ số 38/2020/AL ngày 02/10/2020 về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân chia bằng bản án có hiệu lực pháp luật
Số hiệu: 38/2020/AL
Loại văn bản: Án lệ
Ngày thông qua:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem ngày thông qua. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Ngày công bố: 02/10/2020
Ngày áp dụng:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định công bố:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Quyết định công bố. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Nguồn án lệ: Đang cập nhật
Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Dân sự
Tóm tắt Án lệ

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
ÁN LỆ SỐ 38/2020/AL
1
Về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân chia bằng bản án
có hiệu lực pháp luật
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 13 tháng 8 năm 2020 được công bố theo Quyết định số 276/QĐ-CA
ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết đnh giám đc thẩm s 28/2019/DS-GĐT ngày 12-11-2019 ca Hi đng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Kiện đòi tài sản” tại tỉnh
Lâm Đồng giữa nguyên đơn Thị M bị đơn cụ Nguyễn Thị Đ,
Phạm Thị H, người có quyền lợi, nghĩa v liên quan gm 09 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 2 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Sau khi tài sản quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đã đưc phân chia
bằng bản án, quyết định đã hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người khác
(không phải đương sự trong vụ án đó) khởi kiện đòi quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng đất đó.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án không thụ vụ án mới. Người yêu cầu đòi
quyền sở hữu nhà quyền sdụng đất thông báo bằng văn bản cho người
thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đã hiệu lực pháp luật của Tòa án
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điểm c khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 327,
khoản 1 Điều 353 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Từ khóa của án lệ:
“Tài sản được phân chia bằng bản án, quyết định đã hiệu lực pháp
luật”; “Kiện đòi tài sản”; “Không thụ lý vụ án mới”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại Đơn khởi kiện đề ngày 18-7-2011, Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
16-6-2015 các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Thị M
(do ông Nguyễn Anh D là người đại diện hợp pháp) trình bày:
Nguồn gốc đất tại số 12 đường G, phường 5, thành phT (trong đó 01
phần nhà, đất tranh chấp hiện nay là số 12
A
đường G) là tài sản của cha mbà M
1
Án l y do Hội đồng t x gm đc thm gm 05 Thm phán Tòa án nhân dân ti cao đ xut.
2
cụ Duy H1 cụ Trần Thị Đ1, được SXây dựng tỉnh Lâm Đồng cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất số 6015/NĐ-XD Q3,4 ngày 18-12-1989.
Nhà cấu trúc cấp 2, hạng 3, còn 80%, nền gạch hoa, vách xây, ờng đúc, mái
bằng, tổng diện tích là 437,9m
2
, diện tích sử dụng chính là 315,17m
2
. Năm 1973,
cH1 cho bà Hoàng Thị N thuê một phn nhà sau đ(s12
A
đưng G). Năm 1975,
gia đình cụ H1 đòi ntN xin thêm một thời gian cho đến khi tìm được
nơi mới sẽ trnhà. Tsau năm 1975, gia đình cụ H1 không thu tiền thuê nhà
của bà N. Năm 1980, bà N lén lút cho Phm Thị H vào nhà đang th ca cH1.
Gia đình M đã khiếu nại việcy đến Ủy ban nhân dân pờng 5, thành phố T,
nhưng qua hòa giải, gia đình bà M đồng ý cho bà H cho đến khi tìm được nhà.
Năm 2003, bà H kê khai và xin cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất tại số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T, gia đình M
tiếp tục yêu cầu H trả nhà. Năm 2011, H xin được giấy phép xây dựng
nhà, nhưng gia đình M không biết. Hiện nay, nhà đất tại 12
A
đường G,
phường 5, thành phố T do H cụ Nguyễn Thị Đ đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất ở. vậy, M khởi kiện yêu
cầu Tòa án buộc H cụ Đ phải hoàn trả gia đình M nhà đất đã chiếm
dụng tại 12
A
đường G, phường 5, thành phố T.
2. Bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ và bà Phạm Thị H trình bày:
Năm 1994, H ông Nguyễn Ngọc C (chồng của H) nhận chuyển
nhượng của Hoàng Thị N n nhà tại số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T
sử dụng ổn định, không có tranh chấp. Năm 2002, H ông C ly hôn. Tại
Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, Tòa
án nhân dân tỉnh m Đồng đã tuyên cụ Đ được sở hữu ½ căn nhà, H được
sở hữu ½ căn nhà nêu trên do vợ chồng bà H mua chung căn nhà cùng cụ Đ (m
của H). Ngày 12-01-2004, bà H cụ Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà số 12
A
đường G, phường 5, thành
phố T. Tháng 3 năm 2011, H xin phép quan thẩm quyền cho xây dựng
lại nhà, vì căn nhà xuống cấp nghiêm trọng. Khi bắt đầu y lại nhà, bà H đã trao
đổi với M về việc đập bức ờng gia đình M tự động xây lấn sang đất
của bà H, nhưng bà M không cho đập và yêu cầu bà H phải trả nhà. Bà H và cụ Đ
xác định: Căn nhà số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T do bà H cụ Đ mua
hợp pháp của bà N, đồng thời đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất n không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của M.
Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm và trả lại đơn khởi
kiện số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016, Tòa án nhân n tỉnh Lâm Đồng
quyết định:
Đình chỉ giải quyết và trả lại đơn khởi kiện về vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý
số 03/2012/TLDS-ST ngày 17-4-2012 về vụ án “Kiện đòi tài sản” giữa nguyên
đơn là bà Tô Thị M với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ và bà Phạm Thị H.
Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật.
3
Sau khi xét xử thẩm, ngày 18-8-2016, ông Nguyễn Anh D đại điện
theo ủy quyền của nguyên đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định thẩm
nêu trên.
Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận kháng o của nguyên đơn và những nời quyn lợi, nghĩa
vụ liên quan gồm các ông, bà: Thị S1, Duy T, Tô Duy S, Tô Th Kim N1,
Thị T1, Tô Thị S2, Tô Duy E, Tô Duy P1, Thị H2, ThH3, Tô Thị Ngọc L,
Duy P2, Duy m S3, ThNgọc H4, Duy H5, Tô Thị Ngọc V,
Duy H6 (do ông Nguyễn Anh D làm đại diện).
Hủy Quyết định đình chỉ việc giải quyết ván dân s số 03/2016/ST-DS
ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân tỉnh Lâm Đồng tiếp tục giải quyết vụ án.
Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí.
Ngày 01-9-2017, Thẩm phán Bùi Hữu Nhân - Chủ tọa phiên tòa thẩm
đơn đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét quyết định phúc thẩm nêu trên
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số 49/2019/KN-DS ngày 31-7-2019, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy quyết định phúc thẩm nêu trên và
giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thẩm số
03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng trả
lại đơn khởi kiện .
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất
trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ vụ án thể hiện, Thị M khởi kiện cho rằng căn nhà số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T thuộc quyền sở hữu của cụ Duy H1 cụ
Trần Thị Đ1, yêu cầu Tòa án xử buộc bà Phạm Thị H cụ Nguyễn Thị Đ trả lại
cho bà.
[2] Tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy
định một trong những trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện là: Sự việc đã
được giải quyết bằng bản án, quyết định đã hiệu lực pháp luật của Tòa án
hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường
hợp vụ án Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay
đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài
sản, thay đổi người quản di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài
sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê,
4
cho mượn, cho nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu theo quy định của
pháp luật được quyền khởi kiện lại;”. Các tài liệu trong hồ ván thể hiện:
Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, a
án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên Phạm Thị H được quyền sở hữu ½ căn
nhà diện tích 40,73m
2
, cụ Nguyễn Thị Đ được quyền sở hữu ½ căn nhà diện tích
40,73m
2
tại số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T. Như vậy, nội dung khởi
kiện của M cho rằng căn nhà số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T của
cụ H1 và cụ Đ1 đã có bản án đang có hiệu lc xác đnh quyền sở hữu n nhà đó là
ca cĐ vi H. Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng
tài sản, người được lợi về tài sản không căn cứ pháp luật đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài
sản đó,…”. Như vậy, với nội dung quyết định của Bản án hôn nhân gia đình
phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT nêu trên t bà M không có quyn đòi cĐ bà H
tr li n nhà s 12
A
đưng G, phưng 5, thành phố T. Cho nên phải xem nội
dung yêu cầu khởi kiện của M thuộc tờng hợp “Sự việc đã được giải quyết
bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”; nếu M không
đồng tình với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 17/HN-PT thì đề
nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét lại bn án đó theo thủ tục giám đốc
thẩm (khi thời hiệu còn) hoặc i thẩm (khi căn cứ). Do đó, ngày 01-8-2016,
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định số 03/2016/QĐST-DS
đình chỉ giải quyết vụ án trả lại đơn khởi kiện của bà M là phù hợp với quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 192 điểm g khoản 1 Điều 217 Blut T tụng
dân sự năm 2015. Quyết định s91/2017/DS-PT ngày 30-5-2017 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy toàn bộ Quyết định số
03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 nêu trên cho rằng quan hệ tranh chấp
trong vụ án này là “Đòi tài sản”, có nguyên đơn, bị đơn khác với nguyên đơn, bị
đơn trong vụ án hôn nhân gia đình đã được Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
xét xử phúc thẩm tại Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm s17/HNGĐ-PT
ngày 24-9-2002 là không đúng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn c vào khon 2 Điều 337, khoản 2 Điu 343, Điu 344 của B
luật T tng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 49/2019/KN-DS
ngày 31-7-2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Kiện đòi tài sản giữa nguyên đơn là
bà Tô Thị M với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ, bà Phạm Thị H những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
5
3. Giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thẩm và trả
lại đơn khởi kiện số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[2] Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày
24-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên Phạm Thị H được
quyền sở hữu ½ căn nhà diện tích 40,73m
2
, cụ Nguyễn Thị Đ được quyền sở hữu
½ căn nhà diện ch 40,73m
2
tại s12
A
đường G, phường 5, thành phố T. N
vậy, nội dung khởi kiện của M cho rằng n nhà s12
A
đường G, png 5,
thành phT của cụ H1 và cụ Đ1 đã có bản án đang có hiệu lực xác định quyền
sở hữu căn nhà đó là của cụ Đ với bà H. Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp quyền yêu cầu người chiếm
hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hp pháp của mình
phải trả lại tài sản đó,…”. Như vậy, với nội dung quyết định của Bản án hôn
nhân gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT nêu trên thì M không quyền
đòi cụ Đ và H trả lại căn nhà số 12
A
đường G, phường 5, thành phố T. Cho
nên phải xem nội dung yêu cầu khởi kiện của bà M thuộc trường hợp “Sự việc đã
được giải quyết bằng bản án, quyết định đã hiệu lực pháp luật của Tòa án”;
nếu M không đồng tình với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số
17/HNGĐ-PT thì đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét lại bản án đó
theo thủ tục giám đốc thẩm (khi thời hiệu còn) hoặc tái thẩm (khi có căn cứ). Do
đó, ngày 01-8-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định s
03/2016/QĐST-DS đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện của bà M là
phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 B
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017
của Tòa án nhân n cấp cao tại Thành phố Hồ CMinh hủy tn bộ Quyết định
số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 nêu trên cho rằng quan hệ tranh chấp
trong vụ án này“Đòi tài sản”, có nguyên đơn, bị đơn khác với ngun đơn, bị
đơn trong vụ án hôn nhân gia đình đã được Tòa án nhân n tỉnh Lâm Đồng
xét xử phúc thẩm tại Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT
ngày 24-9-2002 là không đúng”.
Tải về
Án lệ 38/2020/AL Án lệ 38/2020/AL

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Án lệ 38/2020/AL Án lệ 38/2020/AL

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Án lệ cùng lĩnh vực

Án lệ mới nhất