Bản án số 48/2020/DS-PT ngày 29/07/2020 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (xác định mức độ lỗi của hai bên để quyết định mức bồi thường)

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 48/2020/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 48/2020/DS-PT ngày 29/07/2020 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (xác định mức độ lỗi của hai bên để quyết định mức bồi thường)
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lạng Sơn
Số hiệu: 48/2020/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/07/2020
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 48/2020/DS-PT NGÀY 29/07/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 29 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 29/2020/TLPT-DS ngày 02 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2020/DS-ST ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 58/2020/QĐ-PT ngày 13 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Phương T, cư trú tại: Thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị đơn: Anh Hà Hùng M, cư trú tại: Thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lâm Văn C; cư trú tại: Thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người kháng cáo: Chị Lê Phương T là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án dân sự sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 20-9-2019, chị Lê Phương T và anh Hà Hùng M có mâu thuẫn trong việc thu mua hoa hồi tại thôn B, xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn nên hai bên lời qua tiếng lại. Chị Lê Phương T có lời nói mạt sát, xúc phạm đến người con bị bệnh bẩm sinh của anh Hà Hùng M. Anh Hà Hùng M dùng tay đánh vào mặt, bụng, sườn của chị Lê Phương T; chị Lê Phương T cầm đá ném về phía anh Hà Hùng M nhưng anh Hà Hùng M tránh được. Hai bên tiếp tục lao vào xô đẩy nhau cách chỗ thu mua hồi khoảng 05m, anh Hà Hùng M cầm được đoạn cây mai khô ở cạnh đường đánh chị Lê Phương T làm chị Lê Phương T ngã xuống đường. Sau khi đứng dậy, chị Lê Phương T tiếp tục cầm đá ném về phía anh Hà Hùng M nhưng không trúng, anh Hà Hùng M đi lên chỗ thu mua hồi, chị Lê Phương T cũng đi theo, anh Hà Hùng M nhặt được đoạn cây gỗ đánh vào đùi chị Lê Phương T. Sự việc được mọi người can ngăn, chị Lê Phương T được gia đình đưa đến Trung tâm y tế huyện B để khám và điều trị từ ngày 20-9- 2019; ngày 22-9-2019 chị Lê Phương T tự xin ra viện để đi chụp CT Scanner và chụp X quang tại Bệnh viện quốc tế T; ngày 23-9-2019 chị Lê Phương T tiếp tục vào điều trị tại Trung tâm Y tế huyện B (lần 2) cho đến ngày 27-9-2019 thì ra viện.

Sự việc được Công an xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn lấy lời khai các bên; chị Lê Phương T yêu cầu anh Hà Hùng M bồi thường nhưng các bên không thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường. Ngày 22-10-2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Hà Hùng M. Ngày 17-02-2020, chị Lê Phương T có đơn khởi kiện yêu cầu anh Hà Hùng M phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị với tổng số tiền là 40.029.000 đồng, bao gồm các khoản:

Tiền thuốc men, viện phí tại Trung tâm y tế huyện B là 1.579.000 đồng. Tiền chiếu chụp tại Bệnh viện quốc tế T là 1.550.000 đồng.

Tiền thuê xe đi chiếu chụp tại Bệnh viện quốc tế T là 1.000.000đồng. Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe là 5.000.000 đồng.

Tiền bồi thường về tổn thất tinh thần 14.900.000 đồng.

Tiền thu nhập bị mất do phải điều trị tại bệnh viện là 08 ngày mỗi ngày là 1.000.000đồng = 8.000.000 đồng.

Tiền thu nhập bị mất của người phục vụ trong thời gian điều trị là 08 ngày x 1.000.000đồng/1 ngày =8.000.000 đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm chị Lê Phương T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, riêng đối với số ngày bị mất thu nhập của chị và người phục vụ, chị Lê Phương T yêu cầu bồi thường là 07 ngày tính từ ngày 22-9-2019 đến ngày 27-9-2019.

Anh Hà Hùng M trình bày: Do chị Lê Phương T có những lời lẽ không hay về đứa con bị bệnh bẩm sinh của anh, khiến anh không kìm chế được nên dẫn đến việc xô sát xảy ra giữa anh và chị Lê Phương T vào chiều tối ngày 20-9- 2019. Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Lê Phương T, anh Hà Hùng M đồng ý bồi thường khoản viện phí phát sinh tại Trung tâm y tế huyện B là 1.579.000 đồng, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe 1.000.000 đồng, tiền thu nhập bị mất của chị Lê Phương T là 1.500.000 đồng; anh Hà Hùng M không chấp nhập bồi thường đối với các yêu cầu còn lại mà chị Lê Phương T đưa ra.

Với những nội dung như trên, Bản án dân sự số 03/2020/DS-ST ngày 19- 5-2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn căn cứ các điểm a, b, c khoản 1 và khoản 2 Điều 590, khoản 4 Điều 585, các khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 586, các khoản 1 và 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, các khoản 2 và 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm d khoản 1 Điều 12, điểm b khoản 1 Điều 24, các khoản 1, 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Lê Phương T. Buộc anh Hà Hùng M phải bồi thường cho chị Lê Phương T các khoản: Tiền viện phí, tiền thuốc tại Trung tâm y tế huyện B, tiền thuê xe đi khám, chụp X Quang và chụp CT tại Bệnh viện quốc tế T là 4.129.000 đồng; tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi ra viện là 2.000.000 đồng; tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 1.490.000 đồng; tiền mất thu nhập của chị Lê Phương T và tiền mất thu nhập của người phục vụ là 4.900.000 đồng. Do chị Lê Phương T có 40% lỗi nên tự phải chịu hậu quả tương ứng với phần lỗi của mình. Vì vậy, tổng số tiền mà anh Hà Hùng M phải bồi thường cho chị Lê Phương T là 7.511.400 đồng (bẩy triệu năm trăm mười một nghìn bốn trăm đồng). Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chịu lãi suất chậm trả của người phải thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Trong thời hạn luật định, ngày 08-6-2020, nguyên đơn chị Lê Phương T có đơn kháng cáo một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2020/DSST ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn; yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị, buộc anh Hà Hùng M tiếp tục phải bồi thường cho chị số tiền 32.117.000 đồng Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể: Anh Hà Hùng M có trách nhiệm bồi thường cho chị Lê Phương T các khoản chi phí khám, chữa, phục hồi sức khỏe; thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại và người chăm sóc, phục vụ người bị thiệt hại; tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi ra viện; tiền bồi thường tổn thất tinh thần; với tổng số tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Về nội dung: Chị Lê Phương T và anh Hà Hùng M đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Nội dung thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa Bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về nội dung vụ án: Khoảng 18 giờ ngày 20-9-2019, chị Lê Phương T và anh Hà Hùng M xảy ra va chạm, xô sát dẫn đến việc anh Hà Hùng M đánh chị Lê Phương T. Chị Lê Phương T phải vào Trung tâm y tế huyện B, tỉnh Lạng Sơn khám và điều trị từ ngày 20-9-2019 đến 27-9-2019. Bệnh án thể hiện, chị Lê Phương T đau đầu, vùng thái dương trái có khối sưng nề; bụng mềm, đau quanh rốn. Chị Lê Phương T đề nghị Cơ quan chức năng xử phạt hành chính đối với anh Hà Hùng M và chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân huyện Bình Gia để giải quyết yêu cầu bồi thường dân sự.

[2] Không đồng ý với kết quả xét xử sơ thẩm, chị Lê Phương T có đơn kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Lê Phương T, anh Lâm Văn C và anh Hà Hùng M đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, cụ thể: Anh Hà Hùng M có trách nhiệm bồi thường cho chị Lê Phương T các khoản chi phí khám, chữa, phục hồi sức khỏe; thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại và người chăm sóc, phục vụ người bị thiệt hại; tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi ra viện; tiền bồi thường tổn thất tinh thần; tổng cộng số tiền mà anh Hà Hùng M phải bồi thường là 10.000.000 (mười triệu) đồng; đề nghị Hội đồng xét xử công nhận nội dung thỏa thuận nói trên.

[3] Xét thấy, việc thỏa thuận giữa các đương sự là tự nguyện, nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Vì vậy, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở. Hội đồng xét xử, căn cứ khoản 2 Điều 5 và Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa Bản án dân sự sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 3 Điều 24, khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, án phí dân sự sơ thẩm được xác định theo nội dung thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, anh Hà Hùng M phải chịu án phí dân sự có giá ngạch tương ứng với số tiền phải bồi thường.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị sửa theo thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa nên người kháng cáo là chị Lê Phương T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, chị Lê Phương T khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe và có yêu cầu được miễn án phí. Vì vậy, Hội đồng xét xử miễn nghĩa vụ nộp án phí dân sự phúc thẩm cho chị Lê Phương T theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 5, Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 584; khoản 1, khoản 4 Điều 585; khoản 1 Điều 586; khoản 1, khoản 2 Điều 590; Điều 357; Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 29; điểm d khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2020/DT-ST ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn; công nhận sự thỏa thuận giữa chị Lê Phương T, anh Lâm Văn C và anh Hà Hùng M, cụ thể:

1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại Anh Hà Hùng M có trách nhiệm bồi thường thiệt cho chị Lê Phương T tổng số tiền là 10.000.000đ (mười triệu đồng) bao gồm các khoản chi phí khám, chữa, phục hồi sức khỏe; thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại và người chăm sóc, phục vụ người bị thiệt hại; tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi ra viện; tiền bồi thường tổn thất tinh thần.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền phải thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Đối với án phí dân sự sơ thẩm: Anh Hà Hùng M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với án phí dân sự phúc thẩm: Chị Lê Phương T được miễn nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả chị Lê Phương T 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm mà chị Lê Phương T đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2016/0000729 ngày 09 tháng 6 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lạng Sơn.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất