Bản án số 44/2017/HNGĐ-ST ngày 22/09/2017 của TAND huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 44/2017/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 44/2017/HNGĐ-ST ngày 22/09/2017 của TAND huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Định Quán (TAND tỉnh Đồng Nai)
Số hiệu: 44/2017/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/09/2017
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 44/2017/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 215/2017/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2017, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2017/QĐXX-ST ngày 16 tháng 8 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2017/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2017, giữa: 

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm: 1994. Địa chỉ: ấp 2, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1989. Địa chỉ: Ấp V, xã L, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.

(Chị L có mặt tại phiên tòa, anh L vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

- Theo đơn khởi kiện ngày 09/5/2017, các biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn L tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2015 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 16/6/2015. Cuộc sống vợ chồng giữa chị và anh L hạnh phúc đến tháng 12/2015 thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do sau đám cưới, chị làm việc ở huyện T còn anh L đi làm thuê tại xã L, vợ chồng phải sống xa nhau, từ đó nảy sinh bất đồng trong cuộc sống và xảy ra cãi vả với nhau. Gia đình hai bên cũng xảy ra mâu thuẩn nên không hòa thuận với nhau, vì thế mà mâu thuẩn vợ chồng chị không được gia đình hai bên can thiệp. Do không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên vào tháng 12/2015 thì chị và anh L đã sống ly thân với nhau cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, anh L và chị không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Nay chị cảm thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh L nữa, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

- Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn L có 01 con là Nguyễn Thanh Đ, sinh ngày 15/02/2016. Chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Đ sau khi ly hôn và chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Văn L không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị và anh Nguyễn Văn L không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị L không trình bày gì thêm và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn L đã được triệu tập nhưng không đến Tòa án làm việc nên không có lời khai.

Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát huyện Đ:

Về tố tụng:

Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sựnăm 2015.

Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật, tư cách đương sự, thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ đầy đủ và giao các văn bản tố tụng đúng quy định của pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Cuộc sống vợ chồng chị L và anh L đã thật sự mâu thuẩn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị L không còn tình cảm với anh L, hơn nữa, anh L không đến Tòa án để hòa giải đoàn tụ nên khả năng đoàn tụ không có, do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị L là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị L được ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị L có nghề nghiệp ổn định, có đạo đức tốt và hiện tại con chung đang sống cùng chị L, được chị L chăm sóc tốt, cháu Đ dưới 36 tháng tuổi nên đề nghị giao con chung cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh L.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đ tiền án phí hôn nhân nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Anh Nguyễn Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt anh Lên.

[2] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Thanh L khởi kiện yêu cầu ly hôn và yêu cầu được nuôi con nên quan hệ pháp luật được xác định là "Xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của đương sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về xác định tư cách của đương sự: Căn cứ Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xác định chị Nguyễn Thị Thanh L là nguyên đơn, anh Nguyễn Văn L là bị đơn.

[5] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh L tự nguyện sống chung với nhau có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 16/6/2015 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu khởi kiện của chị L: Chị L xin ly hôn với lý do vợ chồng phải sống xa nhau, từ đó nảy sinh bất đồng trong cuộc sống và xảy ra cãi vả với nhau, gia đình hai bên cũng xảy ra mâu thuẩn và vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 12/2015 cho đến nay. Qua thu thập chứng cứ tại chính quyền địa phương thể hiện: Vợ chồng chị L, anh L thật sự có mâu thuẫn, đã sống ly thân từ tháng 12/2015, không còn chăm lo cho nhau.

Qua xem xét lời trình bày của chị L, chứng cứ Tòa án thu thập được có đủ căn cứ xác định vợ chồng chị L anh L thật sự đã có mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân trong thời gian dài, không còn quan tâm chăm sóc nhau, vi phạm quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, anh L không đến Tòa án để tiến hành hòa giải đoàn tụ, điều này thể hiện anh L không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Tại phiên tòa, chị L xác định không còn tình cảm với anh L và vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn. Xét thấy, cuộc sống vợ chồng chị L và anh L đã có mâu thuẫn, khả năng đoàn tụ không có, chị L không còn tình cảm với anh L, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L, giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Nguyễn Văn L theo Điều 51, 53, 54, 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về con chung: Vợ chồng chị L và anh L có 01 con chung là Nguyễn Thanh Đ, sinh ngày 15/02/2016. Chị L xin trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn. Xét thấy, chị L có nghề nghiệp ổn định, có đạo đức tốt và hiện tại con chung đang sống cùng chị L, được chị L chăm sóc tốt và cháu Đ dưới 36 tháng tuổi nên giao con chung cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn. Anh L có quyền thăm con chung, không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này theo quy định tại Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu cấp dưỡng con chung sau ly hôn nên tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh L.

Về tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đ tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đúng pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 207, 220, 227, 228, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 19, 51, 53, 54, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh L.

Chị Nguyễn Thị Thanh L được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2. Về con chung:

Giao cháu Nguyễn Thanh Đ, sinh ngày 15/02/2016 cho chị L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh L. Anh L có quyền thăm con chung, không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này. Chị L và anh L có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh L phải chịu 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Số tiền 300.000đ tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai số 004212 ngày 24/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ được tính trừ vào số tiền án phí chị L phải chịu. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Chị Nguyễn Thị Thanh L có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Văn L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất