Bản án số 37/2017/HNGĐ-ST ngày 23/06/2017 của TAND huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2017/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2017/HNGĐ-ST ngày 23/06/2017 của TAND huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Phước Long (TAND tỉnh Bạc Liêu)
Số hiệu: 37/2017/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/06/2017
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 37/2017/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 23 thaùng 6 nĂ 2017, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét sử sơ thẩm công khau vụ án số: 224/2016/TLST – HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2016, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2017/QĐXX-ST ngày 03 tháng 4 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2017/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2017/QĐTS-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2017, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Th V – sinh năm 1981; Địa chỉ: Số S, ấp P, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn: Anh Cao V L – sinh năm 1983; Địa chỉ: Số S, ấp P, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Chị V có đơn yêu cầu vắng mặt tại phiên tòa. Anh L vắng mặt tại phiên tòa không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Theo đơn khởi kiện ngày 17 tháng 10 năm 2016 nguyên đơn chị Phạm Th V yêu cầu ly hôn anh Cao V L; yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là cháu Cao Th T sinh ngày 24/11/2004 và cháu Cao Thị Nh sinh ngày 24/3/2011, không yêu cầu Anh L cấp dưỡng nuôi con.

Ngoài các yêu cầu vừa nêu, tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án Chị V còn xác định: Chị V và Anh L sống chung và có đăng ký kết hôn vào năm 2004. Trong thời gian chung sống có được hai con chung là Cao Th T sinh ngày 24/11/2004 và cháu Cao Thị Nh sinh ngày 24/3/2011, hiện tại các cháu đang sống chung Chị V. Chị V xác định trong thời gian sống chung Anh L không lo lắng gì cho gia đình mà luôn chơi cờ bạc, đánh bài, đá gà khi Chị V khuyên thì Anh L đập đồ đạc, quậy phá rồi gây nợ nần cho gia đình, xong anh đi làm không gửi tiền về trả nợ, Chị V thì ở nhà nuôi con và trả nợ hết, Anh L về thời gian lại tiếp tục bài bạc, nợ nần quậy phá rồi lại bỏ nhà đi và cũng không gửi tiền về trả nợ rồi chị lại tự làm trả hết nợ; vì nguyên nhân này mà vợ chồng Chị V khi còn sống chung thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và cải nhau. Hiện tại Chị V không còn tình cảm với Anh L nên yêu cầu được ly hôn Anh L.

Chị V xác định chị và Anh L không có tài sản chung và không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản ghi lời khai ngày 03 tháng 02 năm 2017 anh Cao V L trình bày: Anh thống nhất với trình bày của Chị V về thời gian kết hôn, về con chung, về tài sản và nợ chung, khi còn sống chung Chị V và Anh L thường xuyên mâu thuẫn về chuyện tiền bạc, nhưng Anh L không đồng ý ly hôn vì còn tình cảm với Chị V.

* Ý kiến của Kiểm sát viên:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán kể từ khi thụ lý vụ án đến khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đối với Hội đồng xét xử tính từ thời điểm bắt đầu phiên tòa cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tại khoản 15 và 16 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Phạm Th V được ly hôn anh Cao V L.

+ Về con chung: Giao cháu Cao Th T - sinh ngày 24/11/2004 và cháu Cao Thị Nh - sinh ngày 24/3/2011 cho Chị V tiếp tục nuôi. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

Do Chị V không yêu cầu Anh L cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

+ Về quan hệ tài sản và nợ: Chị V và Anh L xác định anh chị không có tài sản chung và không có nợ chung, nên không xem xét giải quyết.

* Các tình tiết của vụ án: Chị V và Anh L trình bày thống nhất là vợ chồng anh, chị sống chung và có đăng ký kết hôn vào năm 2004. Trong thời gian chung sống có được hai con chung là Cao Th T sinh ngày 24 tháng 11 năm 2004 và cháu Cao Thị Nh sinh ngày 24 tháng 3 năm 2011, hiện tại các con chung đang sống chung Chị V, vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung.

- Về nguyên nhân yêu cầu ly hôn: Chị V xác định chị và Anh L thường xuyên mâu thuẫn gia đình, nên hiện tại chị không còn tình cảm với Anh L. Anh L thừa nhận vợ chồng chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn về chuyện tiền bạc, nhưng

Anh L vẫn còn tình cảm với Chị V, nên không đồng ý ly hôn Chị V. Tuy nhiên, Chị V xác định nếu Tòa án không cho chị ly hôn Anh L chị vẫn không chung sống với Anh L, vì đã không còn tình cảm với Anh L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự: Chị Phạm Th V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh L và yêu cầu nuôi con chung, được Tòa án nhân dân huyện Phước Long thụ lý - giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Do Chị V có đơn yêu cầu được vắng mặt và Anh L vắng mặt lần thứ hai không lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt Chị V và Anh L trong vụ án này.

[3] Xét yêu cầu của Chị V về hôn nhân: Chị V và Anh L tự nguyện sống chung từ năm 2004, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do trong thời gian chung sống Chị V và Anh L có nhiều mâu thuẫn, hiện tại Chị V đã không còn tình cảm với Anh L, không muốn sống chung với Anh L, nên cương quyết xin ly hôn Anh L. Mặc dù Anh L không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của Chị V vì còn thương Chị V, nhưng qua đối chiếu với quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì "vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu.., có nghĩa vụ sống chung với nhau", nhưng hiện nay Chị V đã không còn thương yêu Anh L và cũng không muốn sống chung với Anh L. Từ đó cho thấy quan hệ hôn nhân của Chị V và Anh L đang trong tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị Phạm Th V được ly hôn anh Cao V L.

[4] Xét yêu cầu của Chị V về nuôi con chung: Chị V yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung khi ly hôn với Anh L, không yêu cầu Anh L cấp dưỡng nuôi con. Mặc dù Anh L không đồng ý giao con cho Chị V nuôi, nhưng trên thực tế cháu Tùng và cháu Ý đang sống chung với chị Liêm, Anh L thường xuyên vắng nhà nhưng Chị V vẫn chăm sóc con chung để các cháu phát triển tốt, cháu Tùng thì có nguyện Vọng được sống chung Chị V khi Chị V và Anh L ly hôn. Để đảm bảo cuộc sống chung của các cháu không bị xáo trộn và không ảnh hưởng về sự phát triển bình thường của các cháu, nên Hội đồng xét xử giao cháu Cao Th T sinh ngày 24 tháng 11 năm 2004 và cháu Cao Thị Nh sinh ngày 24 tháng 3 năm 2011 cho Chị V tiếp tục nuôi. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Do Chị V không yêu cầu Anh L cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Do Chị V và Anh L thống nhất xác định vợ chồng anh, chị không có tài sản chung và không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí trong vụ án: Chị Liêm phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, Anh L không phải chịu án phí.

[7] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về thủ tục tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án là đúng, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

- Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 244, 246, 271, 273, 278 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 8; 9; 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình được sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Áp dụng pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 về  án phí, lệ phí tòa án ngày 27 tháng 02 năm 2009.

- Áp dụng Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Pham Thị Vinh và anh Cao V L.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Cao Th T - sinh ngày 24 tháng 11 năm 2004 và cháu Cao Thị Nh - sinh ngày 24 tháng 3 năm 2011 cho Chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở. Do Chị V không yêu cầu Anh L cấp dưỡng nuôi con trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về tài sản: Chị Phạm Th V và anh Cao V L xác định không có tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ: Chị Phạm Th V và anh Cao V L xác định không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Buộc chị Phạm Th V phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 200.000đ. Chị V đã nộp tạm ứng án phí số tiền 200.000đ tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002771 ngày 19 tháng 10 năm 2016, được chuyển thu án phí 200.000đ. Anh Cao V L không phải chịu án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử phúc thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết Bản án. Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị Bản án theo quy định của pháp luật./

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất