Bản án số 01/2018/HNGĐ-ST ngày 09/01/2018 của TAND TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2018/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2018/HNGĐ-ST ngày 09/01/2018 của TAND TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cao Lãnh (TAND tỉnh Đồng Tháp)
Số hiệu: 01/2018/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/01/2018
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 09 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 436/2017/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2017 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình – ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2017 /QĐXXST-HNGĐ ngày 07 th á n g 12 n ă m 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Ngọc Thùy T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số nhà A, tổ B, khóm C, phường D, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Đinh Tấn L, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Số nhà E, tổ F, khóm G, phường D, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. (Chị T có mặt tại phiên tòa, anh L vắng mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Ngọc Thùy T trình bày:

Quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc Thùy T và anh Đinh Tấn L chung sống như vợ chồng năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 18/7/2016. Thời gian đầu, chị T và anh L chung sống hạnh phúc tại gia đình chị T. Khi chị T mang thai, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do chị T và anh L bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Sau mỗi lần cãi nhau, vợ chồng xa nhau vài ngày và lại hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng dần dần mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không hàn gắn tình cảm lại được nữa. Chị T đã cố gắng nhiều lần hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng vẫn không được. Chị T nhận thấy anh L đã thay đổi, cư xử lạnh nhạt với chị, không quan tâm đến vợ con. Nay chị T yêu cầu được ly hôn với anh Đinh Tấn L.

Con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đinh Ngọc Thiên N, sinh ngày 12/6/2016, hiện con chung đang sống chung với vợ chồng. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không có.

Nợ chung: Không có.

Anh Đinh Tấn L trình bày: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đinh Tấn L không có mặt tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Thùy T và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con. Bị đơn anh Đinh Tấn L có địa chỉ tại Phường D, thành phố Cao Lãnh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Đinh Tấn L, anh Đinh Tấn L trực tiếp ký nhận thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng anh Đinh Tấn L không có mặt tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Ngọc Thùy T đồng ý việc xét xử vắng mặt anh Đinh Tấn L tại phiên tòa theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đinh Tấn L theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Xét quan hệ hôn nhân của chị Nguyễn Ngọc Thùy Tvà anh Đinh Tấn L được xác lập vào năm 2015, do hai anh chị tự nguyện và thừa nhận, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 18/7/2016 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Ngọc Thùy T và anh Đinh Tấn L là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Trong quá trình sống chung, chị T cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau và mâu thuẫn ngày càng nhiều. Tại phiên tòa hôm nay, chị T cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh L , anh L không có mặt tại phiên tòa để trình bày ý kiến của anh về quan hệ hôn nhân. Hội đồng xét xử xét thấy: Chị T và anh L có nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T, chị Nguyễn Ngọc Thùy T được ly hôn với anh Đinh Tấn L.

[3] Xét con chung: Nguyễn Ngọc Thùy T và anh Đinh Tấn L có 01 con chung tên Đinh Ngọc Thiên N, sinh ngày 12/6/2016, hiện con chung đang sống chung với chị T. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, anh L không có mặt tại phiên tòa để trình bày về con chung. Hội đồng xét xử xét thấy chị T đã nuôi cháu N ổn định. Hơn nữa, cháu N còn rất nhỏ, cần được sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ nhiều hơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Thuỳ T, tiếp tục giao con chung tên Đinh Ngọc Thiên N, sinh ngày 12/6/2016 cho chị Thuỳ T trực tiếp nuôi theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Xét về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Thuỳ Trang không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung, anh Đinh Tấn L không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

Hai bên được quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, thăm nom con chung, không bên nào được cản trở theo quy định tại Điều 81, Điều82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Xét tài sản chung và nợ chung: Chị Thuỳ T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ ai và không cho ai nợ, anh Đinh Tấn L không có ý kiến gì về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Án phí: Chị Thuỳ T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Đinh Tấn L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a hoản 1 Điều 35, điểm a hoản 1 Điều 39, hoản 4 Điều 147, điểm hoản 2 Điều 227 và hoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a hoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy an thường vụ Quốc hội quyđịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và l phíTòa án.

Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Ngọc Thùy T,chị Nguyễn Ngọc Thùy T được ly hôn với anh Đinh Tấn L.

Con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Ngọc Thùy T, tiếp tục giao con chung tên Đinh Ngọc Thiên N, sinh ngày 12/6/2016 cho chị Nguyễn Ngọc Thùy T trực tiếp nuôi, hiện con chung đang sống với chị T.

Hai bên được quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, thăm nom con chung, không bên nào được cản trở.

Cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí: Nguyễn Ngọc Thùy T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 00251 ngày 02/10/2017 của Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp, như vậy chị T đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Đinh Tấn L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Ngọc Thùy T có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Đinh Tấn L có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc nhận được bản án.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất