Người khuyết tật là gì? Có phải người hạn chế năng lực hành vi

Theo quy định của pháp luật, người khuyết tật là gì và người khuyết tật có phải người hạn chế năng lực hành vi không? Theo dõi bài viết sau để có câu trả lời chính xác về vấn đề này.

Người khuyết tật là gì theo quy định của pháp luật?

Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết 01/nhiều bộ phận cơ thể/bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn (theo khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010).

Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau:

- Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát/không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn/suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

- Người khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần/suy giảm chức năng, không tự kiểm soát/không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc/suy giảm khả năng lao động từ 61% - 80%;

- Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật có khả năng tự phục vụ sinh hoạt/suy giảm khả năng lao động dưới 61%.

Người khuyết tật là gì theo quy định của pháp luật?
Người khuyết tật là gì theo quy định của pháp luật? (Ảnh minh họa)

Điều 3 Luật Người khuyết tật và Điều 2 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định khuyết tật gồm 06 dạng, cụ thể:

Stt

Dạng tật

Biểu hiện

1

Khuyết tật vận động

Giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển

2

Khuyết tật nghe, nói

Giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói

3

Khuyết tật nhìn

Giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường

4

Khuyết tật thần kinh, tâm thần

Rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường

5

Khuyết tật trí tuệ

Giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc

6

Khuyết tật khác

Giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp nêu trên

Người khuyết tật là người hạn chế năng lực hành vi?

Việc xác định một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải căn cứ vào khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của người đó và không phải người khuyết tật nào cũng là người hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Theo Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi như sau:

Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

Khoản 1 Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự:

Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Theo đó, việc xác định một người mất năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi căn cứ vào khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của người đó và phải được Tòa án ra quyết định tuyên bố trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Tức là, việc một người bị khuyết tật không phải là căn cứ để xác định mất/hạn chế năng lực hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Phải thuộc một trong các trường hợp nêu trên và được Tòa án ra quyết định thì mới được xác định là người mất/hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 22, Điều 23, 24 Bộ luật Dân sự năm 2015 và đã thành niên thì người khuyết tật vẫn có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định tại tại Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trên đây là định nghĩa người khuyết tật là gì và quy định liên quan, nếu có thắc mắc, vui lòng gọi ngay đến tổng đài 19006192 để được giải đáp.

Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Khóa học soạn thảo hợp đồng nào “thực chiến”, hiệu quả?

Khóa học soạn thảo hợp đồng nào “thực chiến”, hiệu quả?

Khóa học soạn thảo hợp đồng nào “thực chiến”, hiệu quả?

Soạn thảo hợp đồng là một trong những kỹ năng cần có của bất kỳ pháp chế doanh nghiệp nào. Và việc tham gia khóa học soạn thảo hợp đồng được xem là cách nhanh nhất để nâng cao kỹ năng quan trọng này, tuy nhiên, để tìm được một khóa học chất lượng, hiệu quả lại không phải điều đơn giản. Hãy cùng tìm hiểu vấn đề này qua bài viết sau.