Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp không được tính hưởng trợ cấp mất việc làm

Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp không được tính hưởng trợ cấp mất việc làm
(LuatVietnam) Đó là hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tại Thông tư số 39/2009/TT-BLĐTBXH ngày 18/11/2009. Theo Thông tư này, tiền trợ cấp mất việc làm bằng số năm được tính hưởng trợ cấp mất việc làm nhân với tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp mất việc làm và nhân với 01. Trong đó, số năm được tính hưởng trợ cấp mất việc làm được xác định là tổng thời gian người lao động làm việc liên tục cho người sử dụng lao động đó được tính từ khi bắt đầu làm việc đến khi người lao động bị mất việc làm, trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điều 41 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ. Trường hợp tổng thời gian làm việc thực tế cho người sử dụng lao động có tháng lẻ (kể cả trường hợp người lao động có thời gian làm việc cho người sử dụng lao động từ đủ 12 tháng trở lên nhưng tổng thời gian làm việc tính trợ cấp mất việc làm dưới 12 tháng) thì được làm tròn như sau: dưới 01 tháng không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm; từ đủ 01 tháng đến dưới 06 tháng được làm tròn thành 06 tháng làm việc để hưởng trợ cấp mất việc làm bằng ½ tháng lương; từ đủ 06 tháng trở lên được làm tròn thành một năm làm việc để hưởng trợ cấp mất việc làm bằng một tháng lương.
Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp không được tính hưởng trợ cấp mất việc làm. Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động, được tính bình quân của 06 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm, bao gồm: tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có). Mức trợ cấp mất việc làm thấp nhất bằng 02 tháng lương, trừ trường hợp thời gian để tính trợ cấp mất việc làm của người lao động làm dưới 01 tháng.
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký. Cách tính trợ cấp mất việc làm được áp dụng từ ngày 01/01/2009; không áp dụng cách tính trợ cấp mất việc làm quy định tại Thông tư này để tính lại trợ cấp mất việc làm đối với những trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động trước ngày 01/01/2009.
  • LuậtViệtnam

Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Chậm đưa đất vào sử dụng: phạt tiền đến 10 triệu đồng

Chậm đưa đất vào sử dụng: phạt tiền đến 10 triệu đồng

Chậm đưa đất vào sử dụng: phạt tiền đến 10 triệu đồng

Từ ngày 01/01/2010, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai sẽ được thực hiện theo Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ. Ngoài những mức xử phạt mới so với quy định hiện hành, điểm nổi bật của Nghị định này là có bổ sung quy định về xử phạt đối với hành vi chậm đưa đất vào sử dụng. Theo đó, phạt tiền từ 500 ngàn đồng đến 02 triệu đồng đối với hành vi không sử dụng đất trồng cây hàng năm quá thời hạn 12 tháng liền, không sử dụng đất trồng cây lâu năm quá thời hạn 18 tháng liền, không sử dụng đất trồng rừng quá thời hạn 24 tháng liền mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.

Từ 01/01/2010: tiếp tục cấp mới giấy phép kinh doanh vũ trường, karaoke

Từ 01/01/2010: tiếp tục cấp mới giấy phép kinh doanh vũ trường, karaoke

Từ 01/01/2010: tiếp tục cấp mới giấy phép kinh doanh vũ trường, karaoke

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 cho phép cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy phép kinh doanh vũ trường, karaoke kể từ ngày 01/01/2010. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phê duyệt quy hoạch vũ trường, karaoke theo quy định tại Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18/01/2006 của Chính phủ và Chỉ thị 17/2005/CT-TTg ngày 25/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quá bar, nhà hàng karaoke, vũ trường được tiếp tục cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy phép kinh doanh theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt.

Khai thác gỗ trái phép: phạt tiền đến 200 triệu đồng

Khai thác gỗ trái phép: phạt tiền đến 200 triệu đồng

Khai thác gỗ trái phép: phạt tiền đến 200 triệu đồng

Theo quy định tại Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, người có hành vi lấy lâm sản trong rừng không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được phép nhưng đã thực hiện không đúng quy định cho phép thì có thể bị xử phạt đến 200 triệu đồng nếu khai thác trái phép từ trên 7m3 đến 12,5m3 gỗ thuộc loài nguy cấp, quý hiếm nhóm IIA trong rừng sản xuất hoặc khai thác trái phép từ trên 5m3 đến 10m3 gỗ thuộc loài nguy cấp, quý hiếm nhóm IIA trong rừng phòng hộ hoặc khai thác trái phép từ trên 2,5m3 đến 5m3 gỗ thuộc loài nguy cấp, quý hiếm nhóm IIA trong rừng đặc dụng.

Tạm ngừng cấp phép xuất khẩu phân bón có nguồn gốc nhập khẩu

Tạm ngừng cấp phép xuất khẩu phân bón có nguồn gốc nhập khẩu

Tạm ngừng cấp phép xuất khẩu phân bón có nguồn gốc nhập khẩu

Bằng Thông tư số 30/2009/TT-BCT ngày 30/10/2009, Bộ Công thương đã quyết định tạm thời ngừng thực hiện việc cấp phép xuất khẩu phân bón có nguồn gốc nhập khẩu theo quy định tại điểm a khoản 4 mục IV Thông tư số 04/2006/TT-BTM ngày 06/4/2006 của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương).