(LuatVietnam) Đây là một trong những nội dung mới quy định tại Luật Đất đai số 45/2013/QH13 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29/11/2013.
Cụ thể, từ ngày 01/07/2014, thời hạn cho thuê đất; giao đất, công nhận quyền sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp tăng lên 50 năm thay vì 20 năm như quy định hiện hành. Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với các trường hợp còn lại vẫn giữ nguyên ở mức tối đa 70 năm đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm; 99 năm đối với thuê đất xây trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao và 70 năm đối với đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính...
Hạn mức giao đất nông nghiệp cũng không có thay đổi đáng kể, tối đa 10 ha hoặc 30 ha đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân ở xã, phường, thị trấn ở đồng bằng hoặc ở trung du, miền núi và tối đa 30 ha đất rừng phòng hộ; đất rừng sản xuất đối với mỗi hộ gia đình hoặc cá nhân... Riêng đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hạn mức giao đất không quá 03 ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khu vực Đông Nam Bộ hoặc đồng bằng sông Cửu Long và không quá 02 ha đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại.
Bên cạnh đó, Luật cũng cho phép nhà đầu tư được tiếp tục chậm sử dụng đất thêm 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này. Hết thời hạn, nếu đất vẫn chưa được đưa vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp bất khả kháng.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2014.
Cụ thể, từ ngày 01/07/2014, thời hạn cho thuê đất; giao đất, công nhận quyền sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp tăng lên 50 năm thay vì 20 năm như quy định hiện hành. Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với các trường hợp còn lại vẫn giữ nguyên ở mức tối đa 70 năm đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm; 99 năm đối với thuê đất xây trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao và 70 năm đối với đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính...
Hạn mức giao đất nông nghiệp cũng không có thay đổi đáng kể, tối đa 10 ha hoặc 30 ha đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân ở xã, phường, thị trấn ở đồng bằng hoặc ở trung du, miền núi và tối đa 30 ha đất rừng phòng hộ; đất rừng sản xuất đối với mỗi hộ gia đình hoặc cá nhân... Riêng đối với đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hạn mức giao đất không quá 03 ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khu vực Đông Nam Bộ hoặc đồng bằng sông Cửu Long và không quá 02 ha đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại.
Bên cạnh đó, Luật cũng cho phép nhà đầu tư được tiếp tục chậm sử dụng đất thêm 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này. Hết thời hạn, nếu đất vẫn chưa được đưa vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp bất khả kháng.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2014.
- LuậtViệtnam