Theo đó, việc xác định công chức phải căn cứ theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 06/2011/NĐ-CP; những trường hợp không đủ căn cứ xác định là công chức theo quy định nêu trên mà kiêm một số chức danh, chức vụ được bầu cử (không chuyên trách) theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thì được xác định là công chức.
Những người đang làm việc chuyên trách công tác Đảng, doàn, Đoàn thanh niên tại các cơ quan nhà nước, ở trong biên chế công chức, hưởng lương từ Ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm vào 01 ngạch thì được xác định là công chức.
Cũng theo quy định tại Thông tư này, những người là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong Công an nhân dân Việt Nam được biệt phái sang làm việc chuyên trách tại cơ quan của tổ chức, tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan nhà nước thì không phải là công chức.
Những người đang làm việc ở các vị trí được pháp luật quy định là công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập mà chưa được tuyển dụng (đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động) thì không xác định là công chức.
Thông tư cũng hướng dẫn cách xác định công chức trong các tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng thành lập mà không phải đơn vị sự nghiệp công lập; bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ; đơn vị sự nghiệp công lập được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước…
Bên cạnh đó, từ năm 2012 trở đi, cơ quan có thẩm quyền quản lý công chức có trách nhiệm cập nhật số lượng công chức tăng, giảm và lập thành Báo cáo thống kê số lượng công chức tăng, giảm gửi về Bộ Nội vụ trước ngày 30/06/ hàng năm. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/07/2011.
- LuậtViệtnam