Nội dung này mới được Chính phủ đề cập đến tại Nghị định 21/2021/NĐ-CP về việc quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Theo đó, Điều 22 Thông tư này quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm như sau:
- Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực: Có hiệu lực từ thời điểm do các bên thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận thì có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được giao kết.
- Tài sản bảo đảm được rút bớt theo thỏa thuận: Phần nội dung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản được rút bớt không còn hiệu lực. Tài sản được bổ sung hoặc thay thế thì phải sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo đảm liên quan đến tài sản này theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan.
- Biện pháp bảo đảm chưa phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không làm thay đổi hoặc không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo đảm.
Mới: Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm từ ngày 15/5/2021 (Ảnh minh họa)
Trong khi đó, theo quy định tại Nghị định 163/2006 và Nghị định 11/2012/NĐ-CP đang có hiệu lực thì Chính phủ không quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề này.
Đồng thời, hiệu lực của hợp đồng bảo đảm theo quy định này áp dụng với toàn bộ nghĩa vụ trong tương lai.
Không chỉ vậy, hiệu lực của hợp đồng bảo đảm không thay đổi hoặc chấm dứt khi các bên không thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ trong tương lai, thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm hoặc thời hạn bảo đảm thực hiện nghĩa vụ…
Nghị định này được ban hành ngày 19/3/2021 và có hiệu lực từ ngày 15/5/2021.