Cũng theo quy định tại Nghị định này, kể từ ngày 01/7/2009, công dân Việt Nam vì lý do nào đó mà có quốc tịch nước ngoài và chưa mất quốc tịch Việt Nam thì vẫn có quốc tịch Việt Nam. Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày có quốc tịch nước ngoài, những người này hoặc cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ, nếu ở nước ngoài phải thông báo cho cơ quan đại diện Việt Nam có thẩm quyền, nếu ở trong nước phải thông báo cho sở tư pháp nơi người đó cư trú biết việc họ có quốc tịch nước ngoài, kèm theo bản sao giấy tờ chứng minh có quốc tịch nước ngoài.
Nghị định cũng quy định trường hợp chưa được thôi quốc tịch Việt Nam là người đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc đang có nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân ở Việt Nam mà cơ quan thuế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân là chủ nợ có văn bản yêu cầu chưa cho người đó thôi quốc tịch Việt Nam thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ không giải quyết việc cho thôi quốc tịch Việt Nam.
Giấy tờ có trong hồ sơ xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam và trong việc giải quyết các việc khác về quốc tịch Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp phải được hợp pháp hóa lãnh sự; giấy tờ bằng tiếng nước ngoài có trong các hồ sơ này phải được dịch sang tiếng Việt và chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/11/2009 và thay thế Nghị định số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam và Nghị định số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 của Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định số 104/1998/NĐ-CP nói trên.
- LuậtViệtnam