Đã có Luật Tình trạng khẩn cấp 2025, số 104/2025/QH15

Luật Tình trạng khẩn cấp 2025, số 104/2025/QH15 được Quốc hội thông qua hôm 03/12/2025 và có hiệu lực từ 01/7/2026.

Luật Tình trạng khẩn cấp 2025, số 104/2025/QH15  quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành nghị quyết, lệnh về tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.

Luật Tình trạng khẩn cấp 2025, số 104/2025/QH15 hiệu lực từ 01/7/2026 (Ảnh minh họa)

Điều 2 Luật Tình trạng khẩn cấp 2025 quy định về tình trạng khẩn cấp như sau:

- Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa do đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân hoặc có tình hình do đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

- Tình trạng khẩn cấp bao gồm:

  • Tình trạng khẩn cấp về thảm họa;
  • Tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
  • Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.

Về nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp được nêu tại Điều 3 Luật Tình trạng khẩn cấp 2025:

1 - Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

2 - Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

3 - Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, tính mạng, sức khỏe của người dân; huy động sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và sự tham gia của Nhân dân trong phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả của tình trạng khẩn cấp.

4 - Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, có sự phân công, phân cấp, phân quyền, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức và lực lượng trong tình trạng khẩn cấp; xác định trách nhiệm của người đứng đầu các cấp, các ngành trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện.

5 - Việc áp dụng, điều chỉnh, chấm dứt các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp phải bảo đảm kịp thời, công khai, minh bạch; các biện pháp làm hạn chế quyền con người, quyền công dân phải thật sự cần thiết, có căn cứ rõ ràng, tương xứng với tính chất, mức độ sự cố, thảm họa và không phân biệt đối xử.

6 - Việc quyết định các biện pháp nhằm ứng phó, khắc phục hậu quả trong tình trạng khẩn cấp gây ra thiệt hại thì người ra quyết định không phải chịu trách nhiệm khi quyết định đó dựa trên thông tin có được tại thời điểm ra quyết định, đúng thẩm quyền và không có động cơ vụ lợi.

7 - Hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp phải được chuẩn bị từ sớm, từ xa; chủ động xây dựng lực lượng, trang bị phương tiện, thực hiện phương châm bốn tại chỗ kết hợp với hỗ trợ của Trung ương, địa phương và cộng đồng quốc tế; chủ động cảnh báo, dự báo, đánh giá nguy cơ xảy ra tình trạng khẩn cấp.

Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 19006192 để được hỗ trợ.
Chia sẻ:
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Tải Luật Dân số 2025, số 113/2025/QH15

Luật Dân số số 113/2025/QH15 được Quốc hội thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 2025, là một văn bản pháp lý quan trọng nhằm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến dân số tại Việt Nam. Luật này sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2026, với một số quy định cụ thể có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2027.