Các trường hợp trả hồ sơ về điều tra bổ sung trong Tố tụng hình sự

(LuatVietnam) Để thi hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS) về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ về điều tra bổ sung. Trong đó:

“Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Chứng cứ quan trọng đối với vụ án bao gồm: Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không”; Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội”; Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội”… Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án nếu Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng mà xét thấy không thể bổ sung tại phiên tòa được. Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được.
 
Cụm từ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” quy định tại khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS được giải thích là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Những trường hợp được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự được quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch. Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung mặc dù “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” khi có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc bị can (bị cáo) là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy tố, xét xử bị can (bị cáo) đã đủ 18 tuổi.
 
Nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát, Tòa án phải nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án để phát hiện các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung và phải kịp thời ra quyết định, không được để hết thời hạn quyết định truy tố hoặc hết thời hạn chuẩn bị xét xử mới ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra vụ án. Điều tra viên phải chủ động gửi đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được cho Kiểm sát viên thụ lý vụ án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên đã thu thập, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, chủ động phối hợp với Điều tra viên để điều tra làm rõ những vấn đề cần chứng minh ngay trong giai đoạn điều tra vụ án; đồng thời kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Ngoài ra Thông tư liên tịch còn quy định các trường hợp trả hồ sơ về điều tra bổ sung do: Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; Căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; Thời hạn trả hồ sơ; Thời hạn điều tra bổ sung và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
 
Thông tư này có hiệu lực sau 45 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Những hướng dẫn trước đây của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trái với những hướng dẫn tại Thông tư này đều bãi bỏ.
  • LuậtViệtnam 

 

Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Vi phạm về sở hữu công nghiệp bị xử phạt tối đa đến 500 triệu đồng

Vi phạm về sở hữu công nghiệp bị xử phạt tối đa đến 500 triệu đồng

Vi phạm về sở hữu công nghiệp bị xử phạt tối đa đến 500 triệu đồng

Ngày 21/9/2010 Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (SHCN). Hình thức phạt tiền được áp dụng theo khung tiền phạt quy định đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính quy định tại điều khoản tương ứng của Nghị định này, mức phạt tối đa là 500 triệu đồng. Phạt cảnh cáo được áp dụng đối với hành vi vi phạm thuộc trường hợp quy định tại Điều 13 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và quy định tại điều khoản tương ứng của Nghị định này. …

Quy định mới của Chính phủ về di sản văn hóa

Quy định mới của Chính phủ về di sản văn hóa

Quy định mới của Chính phủ về di sản văn hóa

Ngày 21/9/2010 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di dản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa. Theo đó, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia khi có đủ các điều kiện như: Có tính đại diện, thể hiện bản sắc của cộng đồng, địa phương; Phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của cong người, được kế tục qua nhiều thế hệ; Có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài...

Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp Nhà nước sau chuyển đổi

Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp Nhà nước sau chuyển đổi

Phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp Nhà nước sau chuyển đổi

Tiếp tục nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH1TV) do Nhà nước làm chủ sở hữu, đảm bảo duy trì hoạt động ổn định sau khi chuyển đổi, ngày 17/9/2010 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 138/2010/TT-BTC hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận đối với công ty TNHH1TV do Nhà nước làm chủ sở hữu. Theo đó lợi nhuận thực hiện của công ty sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau: Chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy định của hợp đồng (nếu có); ...

Chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ

Chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ

Chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ

Ngày 02/8/2010 Bộ Quốc Phòng - Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội – Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 102/2010/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện một số chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ và việc lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách cho công tác dân quân tự vệ. Thời gian hưởng phụ cấp hằng tháng đối với Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã, Thôn đội trưởng tính từ ngày có quyết định bổ nhiệm và thực hiện cho đến ngày thôi giữ chức vụ đó; trường hợp giữ chức vụ từ 15 ngày trở lên trong tháng thì được hưởng phụ cấp cả tháng, giữ chức vụ dưới 15 ngày trong tháng thì được hưởng 50% phụ cấp của tháng đó..