Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chuyển vào Bộ Tài chính theo Nghị định số 66/2004/NĐ-CP ngày 19/2/2004. Với vai trò là cơ quan điều hành chính sách tài chính vĩ mô, cơ quan quản lý và phát triển thị trường tài chính, các chính sách tài chính được triển khai từ Bộ Tài chính (như phát hành trái phiếu, thuế, phí...) sẽ tạo thêm sự gắn kết, sự đồng bộ, đảm bảo yếu tố an toàn cho TTCK và các thị trường tài chính khác.
Để tăng hiệu quả hoạt động đối với lĩnh vực chứng khoán, ngày 20/10/2004 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 100/2004/TT-BTC hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lĩnh vực chứng khoán. Đối tượng điều chỉnh của Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng dẫn tại Thông tư này bao gồm:
- Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng lưu ký;
- Tổ chức, cá nhân trong và nước ngoài đầu tư chứng khoán tại Việt Nam;
- Quỹ đầu tư chứng khoán;
Các hoạt động như: Môi giới chứng khoán; Tự doanh chứng khoán; Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán; Bảo lãnh và đại lý phát hành chứng khoán; Đại diện người sở hữu trái phiếu; Các hoạt động đầu tư của Quỹ đầu tư Chứng khoán... không phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán mới thành lập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo. Các công ty thành lập trước ngày 01/01/2004 đã thực hiện miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp thì tiếp tục được hưởng đủ thời gian miễn, giảm thuế như quy định trên. Cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư chứng khoán tại Việt Nam tạm thời chưa phải nộp thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán chứng khoán và các khoản thu nhập khác từ đầu tư chứng khoán theo quy định hiện hành.
Việc đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế và xử lý vi phạm về thuế đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Các trường hợp riêng được quy định cụ thể tại thông tư này.
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
(Theo Cục Tin học & Thống kê Tài chính - Bộ Tài chính)