Theo đó, số thuế TNDN phải nộp năm 2011 của doanh nghiệp nhỏ và vừa được gia hạn nộp thuế là số thuế TNDN tạm tính hàng quý và số chênh lệch cao hơn khi quyết toán thuế năm 2011. Số thuế TNDN được gia hạn không bao gồm số thuế tính trên phần thu nhập từ hoạt động kinh doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, xổ số kiến thiết, kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và thu nhập từ kinh doanh các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu.
Trường hợp doanh nghiệp vừa có thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh được gia hạn nộp thuế và thu nhập không được gia hạn nộp thuế thì phải hạch toán riêng từng thu nhập để kê khai nộp thuế riêng. Doanh nghiệp không hạch toán tiên được thì số thuế TNDN tạm tính hoặc quyết toán xác định theo tỷ lệ giữa tổng doanh thu được gia hạn với tổng doanh thu thực hiện của doanh nghiệp.
Trường hợp hoạt động kinh doanh được gia hạn nộp thuế bị lỗ, hoạt động kinh doanh không được gia hạn nộp thuế có thu nhập (hoặc ngược lại) thi được bù vào thu nhập chịu thuế của các hoạt động kinh doanh có thu nhập do doanh nghiệp tự chọn.
Số thuế TNDN được gia hạn phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2011, doanh nghiệp thuộc diện được gia hạn nộp thuế thực hiện lập và gửi tờ khai thuế TNDN tạm tính hàng quý và tờ khai quyết toán thuế TNDN năm 2011 theo quy định hiện hành, tại dòng cam kết trong tờ khai ghi bổ sung nội dung thời hạn nộp thuế đề nghị gia hạn.
Cũng theo Thông tư này thì doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đáp ứng tiêu chí về vốn hoặc lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009; thời gian gia hạn nộp thuế TNDN tạm nộp hàng quý, quyết toán số thuế năm thực hiện theo quy định tại Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg…
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/06/2011; việc gia hạn thời hạn nộp thuế TNDN năm 2011 của doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện kể từ ngày 06/04/2011.
- LuậtViệtnam