Theo đó, các hộ thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước chưa được cải tạo, xây dựng lại tới đây sẽ trả tiền theo giá thuê nhà mới được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành. Mức giá cho thuê nhà ở cụ thể ở từng tỉnh được xác định dựa trên giá chuẩn cùng với 4 nhóm hệ số: Hệ số cấp đô thị; Hệ số vị trí xét theo các khu vực trong đô thị; Hệ số tầng cao; Hệ số điều kiện hạ tầng kỹ thuật.
Đối với đô thị loại đặc biệt và loại I thì không được giảm so với giá chuẩn quy định. Các đô thị loại II, III, IV, V thì được giảm trừ dần, mỗi loại chênh nhau 5%.
Tương tự, nếu ở khu vực trong đô thị thuộc vị trí trung tâm thì không được giảm, còn nếu là cận trung tâm thì giảm 10%, ven nội giảm 20% so với giá chuẩn.
Về tầng cao, nếu ở tầng 1 thì cộng thêm 15% so với giá chuẩn, tầng II cộng thêm 5%, tầng III giữ nguyên giá, tầng IV giảm 10%, tầng V giảm 20% và từ tầng VI trở lên giảm 30%.
Nhà nếu được xếp loại tốt về hạ tầng kỹ thuật thì không được giảm, nếu đạt mức trung bình giảm 10%, mức kém giảm 20%. Trong đó, các điều kiện hạ tầng kỹ thuật chủ yếu (gắn liền với nhà ở) để đánh giá nhà ở bao gồm: điều kiện giao thông, điều kiện vệ sinh của nhà ở, điều kiện hệ thống cấp thoát nước.
Việc triển khai thực hiện bảng giá cần đảm bảo nguyên tắc tránh xáo trộn lớn trong việc quản lý cho thuê quỹ nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; đối với những nhà ở mà hợp đồng còn thời hạn thuê nhà, không phải ký kết lại hợp đồng thuê nhưng cơ quan quản lý nhà ở phải có trách nhiệm thông báo giá thuê mới cho các hộ thuê nhà biết để tiếp tục thuê và thực hiện trả tiền theo đúng quy định. Còn đối với những trường hợp nhà ở mà hợp đồng hết thời hạn thuê, cơ quan quản lý nhà ở thực hiện ký kết lại hợp đồng với giá thuê nhà ở mới đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành áp dụng trên địa bàn.
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
. (Luật Việt Nam)