Trích dẫn tác phẩm có phải xin phép và trả tiền không?

Trích dẫn tác phẩm là một phần của quyền sở hữu trí tuệ, theo quy định hiện hành, trích dẫn tác phẩm có phải xin phép và trả tiền không?

Các trường hợp trích dẫn tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo quy định tại Điều 25 bao gồm:

1. Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình

Điều 10 Công ước Berne năm 1886 quy định một số trường hợp sử dụng tự do tác phẩm:

1. Trích dẫn; 2. Minh hoạ phục vụ giảng dạy; 3. Chỉ dẫn nguồn gốc và tác giả. Được coi là hợp pháp những trích dẫn rút từ một tác phẩm đã được phổ cập tới công chúng một cách hợp pháp, miễn là sự trích dẫn đó phù hợp với những thông lệ đúng đắn và không vượt quá mục đích trích dẫn, kể cả những trích dẫn các bài báo và tập san định kỳ dưới hình thức điểm báo.

trích dẫn tác phẩm có phải xin phép và trả tiền khôngTrích dẫn tác phẩm có phải xin phép và trả tiền không? (Ảnh minh họa)
 

Đồng thời, điểm b khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi 2009, Điều 23 Nghị định số 22/2018 cũng nêu:

Trường hợp trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao nếu đáp ứng các điều kiện sau:

- Tác phẩm đã được công bố (được hiểu là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả);

- Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình.

- Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn;

- Phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.

2. Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu

Theo điểm c khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, trích dẫn tác phẩm để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu không phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao nếu đáp ứng các điều kiện sau:

- Tác phẩm đã được công bố;

- Việc trích dẫn tác phẩm không được làm sai ý tác giả;

- Việc trích dẫn tác phẩm được dùng để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.

3. Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại

Theo điểm d khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ thì việc trích dẫn tác phẩm để giảng dạy không phải xin phép tác giả, chủ sở hữu tác giả khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:

- Tác phẩm đã được công bố;

- Việc giảng dạy được thực hiện trong nhà trường;

- Việc trích dẫn tác phẩm không được làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

- Việc sử dụng tác phẩm không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Như vậy, nếu việc trích dẫn tác phẩm thuộc một trong các trường hợp nêu trên và đáp ứng đủ các điều kiện thì không phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao. Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ: 1900.6192 để được hỗ trợ.

>> 10 trường hợp sử dụng tác phẩm không phải trả nhuận bút
Đánh giá bài viết:
(1 đánh giá)

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?

Nhiều người đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài, khi về Việt Nam thắc mắc có phải làm thủ tục đăng ký lại không? Cùng theo dõi bài viết dưới đây để biết cụ thể giải đáp vấn đề: Đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài có phải đăng ký lại ở Việt Nam không?