Lưu ý: Toàn bộ nội dung trả lời cho các câu hỏi dưới đây đều do AI Luật - Trợ lý ảo LuatVietnam.vn cung cấp. AI Luật đang từng bước hoàn thiện mỗi ngày nên có thể mắc lỗi. Bạn hãy cân nhắc kỹ và kiểm tra lại những thông tin quan trọng khi tham khảo.

AI Luật trả lời:
Căn cứ vào dữ liệu mà tôi đã được cung cấp cho đến thời điểm hiện tại, hành vi của X có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người theo Điều 128 Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Dưới đây là phân tích về các yếu tố cấu thành tội phạm:
1. Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là quyền sống của con người, cụ thể là quyền sống của P. Hành vi của X đã xâm phạm đến quyền sống này.
2. Mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi: X đã sử dụng súng săn tự chế để bắn về phía có tiếng động mà X tưởng là thú rừng.
- Hậu quả: Hành vi của X đã dẫn đến cái chết của P.
- Mối quan hệ nhân quả: Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bắn súng của X và cái chết của P, vì hành vi bắn súng trực tiếp gây ra cái chết của P.
3. Chủ thể của tội phạm:
X là chủ thể của tội phạm. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13 , người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. X phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.
4. Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi: X có lỗi vô ý vì quá tự tin. X thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. X không có ý định giết P mà chỉ nhầm tưởng đó là thú rừng.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng việc sử dụng súng săn tự chế có thể vi phạm quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ. Căn cứ vào Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo mức độ vi phạm.
Như vậy, X có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người và có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng súng săn tự chế.


AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 173 Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, tội trộm cắp tài sản được quy định như sau:
1. Chủ thể: Theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chỉ chịu trách nhiệm hình sự nếu thuộc các khung hình phạt rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
2. Khách thể: Khách thể của tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Mặt khách quan: Hành vi phạm tội này có tính chất chiếm đoạt tài sản nhưng được thực hiện bằng hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của cá nhân, tổ chức quản lý tài sản hoặc lợi dụng hoàn cảnh khách quan như chen lấn, xô đẩy để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
4. Mặt chủ quan: Đây là lỗi cố ý, tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản có thể gây ra thiệt hại về tài sản cho người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc cố ý bỏ mặc hậu quả đó xảy ra.
Trong trường hợp của H và Q, hành vi của họ có thể cấu thành tội trộm cắp tài sản vì:
- H và Q đã lợi dụng tình trạng say rượu của chị B và hai người bạn để lén lút chiếm đoạt tài sản của chị B.
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 10 triệu đồng, vượt mức tối thiểu 2 triệu đồng để cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Do đó, H và Q có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13 .

AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 18 Bộ luật Hình sự, số 100/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.
Trong trường hợp này, B biết rõ chiếc xe SH là tài sản do A trộm cắp mà có, nhưng vẫn đồng ý giữ hộ và sau đó nhận tiền từ A. Hành vi này của B có thể cấu thành tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC có hiệu lực từ ngày 07/02/2012.
Cụ thể, B đã thực hiện hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, khi biết rõ tài sản đó là do A trộm cắp mà có. Do đó, B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.