Hợp đồng mua bán xe không công chứng có vô hiệu không?

Một số câu hỏi của người dùng về thủ tục liên quan đến dân sự AI Luật - Trợ lý ảo LuatVietnam.vn trả lời. Cùng khám phá khả năng phân tích và trả lời AI Luật trong phần tổng hợp dưới đây.

Lưu ý: Toàn bộ nội dung trả lời cho các câu hỏi dưới đây đều do AI Luật - Trợ lý ảo LuatVietnam.vn cung cấp. AI Luật đang từng bước hoàn thiện mỗi ngày nên có thể mắc lỗi. Bạn hãy cân nhắc kỹ và kiểm tra lại những thông tin quan trọng khi tham khảo. 

Câu hỏi: A ký hợp đồng mua bán xe với B, nhưng trong hợp đồng không có chứng thực của cơ quan chức năng và cũng không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của B đối với chiếc xe. A có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng này vô hiệu và yêu cầu B trả lại tiền.

AI Luật trả lời:

Căn cứ vào Điều 117 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

  1. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
  2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.
  3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
  4. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Trong trường hợp của bạn, hợp đồng mua bán xe giữa A và B không có chứng thực của cơ quan chức năng và không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của B đối với chiếc xe. Điều này có thể vi phạm điều kiện về hình thức và nội dung của giao dịch dân sự, do đó A có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng này vô hiệu.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 430 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 , hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán. Nếu B không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với chiếc xe, thì hợp đồng có thể bị coi là vô hiệu do vi phạm điều kiện về đối tượng của hợp đồng.

A có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và yêu cầu B trả lại tiền đã thanh toán.

Hợp đồng mua bán xe không công chứng có vô hiệu không? (Ảnh minh họa)
Câu hỏi: C và D là hai người bạn, nhưng khi D mượn xe của C, D không trả lại. C kiện D yêu cầu trả lại xe hoặc bồi thường thiệt hại. D phản bác rằng xe đã được tặng cho D nhưng không có giấy tờ chứng minh. Trường hợp này có thể đưa ra Tòa án để giải quyết tranh chấp quyền sở hữu không?

AI Luật trả lời:

Căn cứ vào Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, số 92/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, trường hợp của C và D có thể được đưa ra Tòa án để giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu xe.

Trong trường hợp này, C có thể kiện D yêu cầu trả lại xe hoặc bồi thường thiệt hại. D có thể phản bác rằng xe đã được tặng cho D, nhưng nếu không có giấy tờ chứng minh việc tặng cho, thì Tòa án sẽ xem xét các bằng chứng và tình tiết khác để xác định quyền sở hữu thực sự của chiếc xe.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 457 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 , hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Nếu không có giấy tờ chứng minh việc tặng cho, D sẽ gặp khó khăn trong việc chứng minh quyền sở hữu đối với chiếc xe.

Như vậy, C có quyền đưa vụ việc ra Tòa án để giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu xe.

Câu hỏi: E là một doanh nhân, F đăng tải thông tin sai sự thật về E trên mạng xã hội, làm tổn hại danh dự của E. E có thể kiện F yêu cầu xin lỗi công khai và bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín theo quy định của pháp luật không?

AI Luật trả lời:

Căn cứ vào Điều 34 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Nếu thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 592 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 , thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại khác do luật quy định. Người chịu trách nhiệm bồi thường phải bồi thường thiệt hại theo quy định và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần.

Do đó, E có thể kiện F yêu cầu xin lỗi công khai và bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín theo quy định của pháp luật. Tòa án sẽ xem xét các bằng chứng và tình tiết liên quan để đưa ra quyết định phù hợp.

Ngày 12/5/2024, LuatVietnam ra mắt AI Luật - Trợ lý ảo Luật Việt Nam phiên bản 1.0 được huấn luyện dựa trên hệ thống văn bản pháp luật trong cơ sở dữ liệu của LuatVietnam, giúp giải đáp thắc mắc về các vấn đề pháp lý. Hiện, người dùng có thể đặt câu hỏi ở các lĩnh vực: Lao động, Bảo hiểm, Đầu tư, Đất đai, Thuế… ĐĂNG KÝ NGAY TẠI ĐÂY
Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 19006192 để được hỗ trợ.
Chia sẻ:
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục