Lưu ý: Toàn bộ nội dung trả lời cho các câu hỏi dưới đây đều do AI Luật - Trợ lý ảo LuatVietnam.vn cung cấp. AI Luật đang từng bước hoàn thiện mỗi ngày nên có thể mắc lỗi. Bạn hãy cân nhắc kỹ và kiểm tra lại những thông tin quan trọng khi tham khảo.
Căn cứ vào Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội, số 58/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016, người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Lao động nữ mang thai.
- Lao động nữ sinh con.
- Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.
- Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi.
- Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản.
- Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
Đối với trường hợp của chị Mai, chị đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được 5 tháng và nghỉ việc trước khi sinh con. Theo khoản 2 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội, để được hưởng chế độ thai sản, lao động nữ sinh con phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Do chị Mai chỉ đóng bảo hiểm xã hội được 5 tháng, nên chị không đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản.
Về mức hưởng chế độ thai sản, nếu chị Mai đủ điều kiện, mức hưởng sẽ được tính theo Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội. Cụ thể, mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Tuy nhiên, do chị Mai không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản, nên chị sẽ không nhận được khoản trợ cấp này.
Như vậy, trong trường hợp của chị Mai, chị không đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản do chưa đóng đủ 06 tháng bảo hiểm xã hội trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
Căn cứ vào Điều 22 Luật Bảo hiểm y tế, số 25/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/07/2009, được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, số 46/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, và tiếp tục được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Bảo hiểm y tế, số 51/2024/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/07/2025, thì người tham gia bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh trái tuyến vẫn được hưởng bảo hiểm y tế, nhưng mức hưởng sẽ khác nhau tùy thuộc vào tuyến bệnh viện và thời điểm khám chữa bệnh.
Cụ thể, mức hưởng bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh trái tuyến như sau:
1. Tại bệnh viện tuyến trung ương:
Được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 40% chi phí điều trị nội trú.
2. Tại bệnh viện tuyến tỉnh:
Từ ngày 01/01/2021, được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí điều trị nội trú trong phạm vi cả nước.
3. Tại bệnh viện tuyến huyện:
Từ ngày 01/01/2016, được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 14 Nghị định 146/2018/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/12/2018, được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Nghị định 02/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/01/2025, thì người tham gia bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh trái tuyến tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp cơ bản hoặc cấp chuyên sâu trong trường hợp chẩn đoán xác định, điều trị một số bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo, bệnh cần phẫu thuật hoặc sử dụng kỹ thuật cao sẽ được hưởng 100% mức hưởng.
Như vậy, người tham gia bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh trái tuyến vẫn được hưởng bảo hiểm y tế, nhưng mức hưởng sẽ phụ thuộc vào tuyến bệnh viện và loại hình điều trị.
Căn cứ vào Điều 24 Luật Bảo hiểm y tế, số 25/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/07/2009, được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, số 46/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, và tiếp tục được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Bảo hiểm y tế, số 51/2024/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/07/2025, thì cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh có ký kết hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế với cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ.
Điều này có nghĩa là bảo hiểm y tế có thể chi trả chi phí khám chữa bệnh tại bệnh viện tư nhân nếu bệnh viện đó có ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế với cơ quan bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 17 Nghị định 146/2018/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/12/2018, nội dung hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế được lập theo mẫu và điều kiện để ký hợp đồng bao gồm việc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có đủ điều kiện hoạt động và đảm bảo cung ứng thuốc, hóa chất, vật tư y tế phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn.
Như vậy, nếu bệnh viện tư nhân đáp ứng các điều kiện và có ký hợp đồng với cơ quan bảo hiểm xã hội, người tham gia bảo hiểm y tế sẽ được chi trả chi phí khám chữa bệnh tại bệnh viện tư nhân đó.