AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 640 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị huỷ bỏ.
Ngoài ra, theo Điều 643 Bộ luật Dân sự, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
Trong trường hợp của ông Bình, ông đã lập một bản di chúc mới vào năm 2022, thay thế cho bản di chúc năm 2015. Do đó, bản di chúc năm 2022 sẽ có hiệu lực và bản di chúc năm 2015 sẽ bị huỷ bỏ. Hai con trai của ông Bình không thể chỉ dựa vào bản di chúc năm 2015 để yêu cầu phân chia tài sản, vì bản di chúc này đã không còn hiệu lực sau khi ông Bình lập di chúc mới vào năm 2022.
Như vậy, di chúc có thể bị thay đổi, và bản di chúc có hiệu lực là bản di chúc sau cùng mà ông Bình đã lập, tức là bản di chúc năm 2022.
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 627 và Điều 628 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, di chúc có thể được lập thành văn bản không có người làm chứng, có người làm chứng, có công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc của ông Nam là di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, công chứng hoặc chứng thực. Theo Điều 630 Bộ luật Dân sự, di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Ngoài ra, Điều 633 Bộ luật Dân sự quy định rằng người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631.
Như vậy, nếu ông Nam tự viết và ký vào bản di chúc, và di chúc đáp ứng đủ các điều kiện về nội dung và hình thức theo quy định của pháp luật, thì di chúc của ông Nam có thể được coi là hợp pháp, mặc dù không có công chứng, chứng thực. Việc các con khác yêu cầu tòa án tuyên di chúc vô hiệu cần phải dựa trên việc xem xét các điều kiện hợp pháp của di chúc như đã nêu trên.
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự, số 91/2015/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 621 Bộ luật Dân sự, những người quy định tại khoản 1 vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Trong trường hợp của bà Lan, nếu con trai bà đã bị kết án về hành vi ngược đãi, bạo hành bà, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 621, con trai bà có thể bị tước quyền hưởng di sản. Tuy nhiên, nếu bà Lan đã biết về hành vi này nhưng vẫn quyết định để lại di sản cho con trai trong di chúc, thì con trai bà vẫn có quyền hưởng di sản theo di chúc, trừ khi có bằng chứng cho thấy di chúc bị lập dưới sự lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản.