Căn cứ vào Điều 45 Luật Đất đai, số 31/2024/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/08/2024, người sử dụng đất được thực hiện quyền thế chấp quyền sử dụng đất khi đáp ứng các điều kiện sau:
- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ tương đương.
- Đất không có tranh chấp hoặc tranh chấp đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật.
- Quyền sử dụng đất không bị kê biên, áp dụng biện pháp khác để bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
- Trong thời hạn sử dụng đất.
- Quyền sử dụng đất không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
Như vậy, nếu quyền sử dụng đất đang có tranh chấp và chưa được giải quyết, thì không thể thực hiện việc thế chấp quyền sử dụng đất. Nếu tranh chấp đã được giải quyết và có quyết định có hiệu lực pháp luật, thì có thể thực hiện thế chấp quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào Điều 235 Luật Đất đai, số 31/2024/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/08/2024, thời gian hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai.
Ngoài ra, căn cứ vào Điều 105 Nghị định 102/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/08/2024, khi nhận được đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản cho các bên tranh chấp đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai nơi có đất tranh chấp về việc thụ lý đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai trong thời hạn 03 ngày làm việc. Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.
Căn cứ vào Điều 139 Luật Đất đai, số 31/2024/QH15 có hiệu lực từ ngày 01/08/2024, điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trường hợp lấn chiếm đất đai được quy định như sau:
1. Trường hợp lấn, chiếm hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng:
Nếu đã có điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mà diện tích đất lấn, chiếm không còn thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng, không thuộc chỉ giới xây dựng đường giao thông, không có mục đích sử dụng cho trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp và công trình công cộng khác thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.2. Trường hợp lấn, chiếm đất có nguồn gốc nông, lâm trường:
Nếu đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao cho Ban quản lý rừng quản lý, sử dụng đất. Người đang sử dụng đất lấn, chiếm có thể được xem xét giao khoán bảo vệ, phát triển rừng.Nếu không có Ban quản lý rừng, người đang sử dụng đất lấn, chiếm có thể được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ và được xem xét cấp Giấy chứng nhận.
3. Trường hợp lấn, chiếm đất và sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp hoặc làm nhà ở:
Nếu không thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, không thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng, người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.4. Trường hợp lấn, chiếm đất không thuộc các trường hợp trên:
Nếu người đang sử dụng đất ổn định, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch xây dựng, quy hoạch nông thôn thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.5. Trường hợp lấn, chiếm đất nông nghiệp do tự khai hoang:
Nếu không có tranh chấp, người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận theo hạn mức giao đất nông nghiệp do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Nếu vượt hạn mức, diện tích vượt hạn mức phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước.6. Trường hợp vi phạm pháp luật đất đai từ ngày 01/07/2014 trở về sau:
Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và xử lý theo quy định của pháp luật.Những quy định trên giúp xác định rõ các điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp lấn chiếm đất đai, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng đất và tuân thủ quy định pháp luật.