Công văn 102/TCT-KK của Tổng cục Thuế về việc uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Công văn 102/TCT-KK

Công văn 102/TCT-KK của Tổng cục Thuế về việc uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế
Cơ quan ban hành: Tổng cục ThuếSố công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:102/TCT-KKNgày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Công vănNgười ký:Lê Hồng Hải
Ngày ban hành:10/01/2011Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Thuế-Phí-Lệ phí
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
--------------------
Số: 102/TCT-KK
V/v: uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------------------
Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2011.
 
 
Kính gửi: Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn
 
 
Tổng cục Thuế nhận được công văn số 169/NSRPLLC ngày 29/10/2010 của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn đề nghị hướng dẫn về việc uỷ quyền ký các văn bản kê khai và quyết toán thuế của Công ty. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại Khoản 1 Điều 4; Khoản 1 Điều 5 Chương I Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 quy định: “Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế”; “Đại diện của người nộp thuế là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền thay mặt người nộp thuế thực hiện một số thủ tục về thuế”.
 Tại Điều 139; Điều 142; Khoản 1 Điều 143; Điều 144 Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 quy định về đại diện, đại diện theo uỷ quyền, người đại diện theo uỷ quyền, phạm vi đại diện như sau:
“Đại diện
1. Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
2. Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
3. Quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền.
4. Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập.
5. Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này”.
“Đại diện theo uỷ quyền
1. Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại diện.
2. Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản”.
“Người đại diện theo uỷ quyền
 Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
“Phạm vi đại diện 
1. Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền.
3. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
4. Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình.
5. Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Tại Khoản 2 Điều 141, Khoản 1 Điều 145 Mục I Chương V Luật Thương mại quy định về đại diện cho thương nhân và nghĩa vụ của bên đại diện như sau: “Trong trường hợp thương nhân cử người của mình để làm đại diện cho mình thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự”; “Thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa và vì lợi ích của bên giao đại diện”.
Tại Điểm 2 Điều 20 Luật Kế toán quy định chứng từ kế toán như sau: “Chữ ký trên chứng từ kế toán phải do người có thẩm quyền hoặc người được uỷ quyền ký”.
Tại Điểm 2 Mục V Phần A Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/06/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế quy định: “Văn bản giao dịch với cơ quan thuế phải được soạn thảo, ký, ban hành đúng thẩm quyền; thể thức văn bản, chữ ký, con dấu trên văn bản phải thực hiện theo quy định của pháp luật về công tác văn thư”.
Tại Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư; Khoản 6 Điều 1 Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08/02/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư quy định: 
“Trong trường hợp đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thể uỷ quyền cho một cán bộ phụ trách dưới mình một cấp ký thừa uỷ quyền (TUQ) một số văn bản mà mình phải ký. Việc giao ký thừa uỷ quyền phải được quy định bằng văn bản và giới hạn trong một thời gian nhất định. Người được uỷ quyền không được uỷ quyền lại cho người khác ký”.
Căn cứ các quy định trên, nộp thuế theo quy định của pháp luật là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi doanh nghiệp. Như vậy, Tổng giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty Lọc hoá dầu Nghi Sơn được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán - người đứng đầu Phòng kế toán của Công ty ký các tờ khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế trước khi nộp cho cơ quan thuế trong một thời gian nhất định và phải được ghi cụ thể trong thông báo uỷ quyền của Công ty gửi đến cơ quan thuế.
Hướng dẫn tại công văn này thay thế hướng dẫn tại công văn 1482/TCT-KK  ngày 23/04/2009 của Tổng cục Thuế về uỷ quyền kê khai thuế.
Tổng cục Thuế trả lời để Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn biết và thực hiện./.
 

 Nơi nhận:
- Như trên;
- Cục Thuế tỉnh Thanh Hoá;
- Vụ PC (BTC);
- Các Vụ PC, CS (TCT);
- Lưu: VT, KK(3b).
KT.TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
 
 
 
 
Lê Hồng Hải

 


TỔNG CỤC THUẾ
VỤ KÊ KHAI VÀ KẾ TOÁN THUẾ
 
 
TRÌNH TỔNG CỤC
V/v uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế
của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn
 
 
Nội dung công việc:
Ngày 12/10/2010 Cục Thuế tỉnh Thanh Hoá có công văn số 2372/CT-TTHT trả lời công văn số 139/NSRPLLC ngày 20/9/2010 của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn về việc uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế với nội dung: Tổng cục Thuế đã có công văn số 1482/TCT-KK ngày 23/4/2009 trả lời Cục Thuế tỉnh Thanh Hoá, trong đó nêu rõ chủ doanh nghiệp không được uỷ quyền trong việc kê khai thuế (trừ trường hợp uỷ quyền theo hợp đồng với các đại lý thuế).
Ngày 03/11/2010 Tổng cục Thuế nhận được công văn số 169/NSRPLLC ngày 29/10/2010 của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn đề nghị hướng dẫn việc uỷ quyền ký các văn bản kê khai và quyết toán thuế của Công ty.
Sau khi nghiên cứu công văn 1482/TCT-KK nêu trên, Công ty có ý kiến như sau:
- Công văn 1482 điều chỉnh việc uỷ quyền kê khai thuế của một tổ chức cho một tổ chức khác chứ không điều chỉnh việc uỷ quyền ký văn bản kê khai thuế trong nội bộ một tổ chức và việc uỷ quyền đề cập ở đây nên được hiểu là uỷ quyền giữa một thương nhân và một thương nhân khác.
- Công văn 1482 trích dẫn các điều khoản của Luật Quản lý thuế và Thông tư 28/2008/TT-BTC liên quan đến vấn đề uỷ quyền cho tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục thuế (đại lý thuế) để đưa ra kết luận: không tổ chức nào - ngoại trừ các đại lý thuế được phép làm đại diện theo uỷ quyền của NNT trong việc kê khai thuế vì việc kê khai thuế, với đặc điểm là giao dịch giữa NNT và cơ quan thuế, không được coi là một giao dịch dân sự thông thường.
Vì vậy, việc người đứng đầu cơ quan, tổ chức (Tổng giám đốc Công ty) uỷ quyền cho người đứng đầu một đơn vị trong Công ty (Phụ trách phòng kế toán) ký tờ khai thuế do Công ty kê khai và các văn bản khác liên quan đến thuế không thuộc phạm điều chỉnh của công văn 1482.
Căn cứ vào các quy định tại Thông tư 60/2007/TT-BTC ngày 14/06/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn Luật Quản lý thuế và Nghị định 09/2010/NĐ-CP ngày 8/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 8/4/2004 của Chính Phủ về công tác văn thư, Công ty đưa ra cách hiểu rằng: Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty có thể uỷ quyền cho Phụ trách phòng Kế toán là người đứng đầu Phòng kế toán của Công ty để ký các tờ kê khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế trước khi nộp cho Cục thuế địa phương.
Công ty đề nghị Tổng cục Thuế xem xét và xác nhận cách hiểu của Công ty là đúng.
2. Căn cứ pháp lý để giải quyết:
- Khoản 1 Điều 4; Khoản 1 Điều 5 Chương I Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11.
- Điều 139; Điều 142; Khoản 1 Điều 143; Điều 144; Điều 148 Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11.
- Khoản 2 Điều 141, Khoản 1 Điều 145 Mục I Chương V Luật Thương mại.
- Điểm 2 Điều 20 Luật kế toán.
- Điểm 2 Mục V Phần A Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/06/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.
- Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư; Khoản 6 Điều 1 Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08/02/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư.
3. Ý kiến tham gia/thẩm định của các đơn vị liên quan
Ngày 9/12/2010 Vụ Kê khai đã gửi lấy ý kiến Vụ Chính sách (TCT), Vụ Pháp chế (TCT) dự thảo công văn trả lời đơn vị. Hạn cuối cùng là ngày 14/12/2010.
- Ý kiến của Vụ Pháp chế (TCT) ngày 21/12/2010:
Căn cứ Luật dân sự; Luật Thương mại về nội dung uỷ quyền; Luật Quản lý thuế; Thông tư 60/2007/TT-BTC các mẫu biểu ban hành kèm theo Thông tư 60/2007/TT-BTC thì cho phép “Người đại diện hợp pháp của người nộp thuế hoặc người nộp thuế” là người được ký trên hồ sơ thuế, cụ thể: cho phép 3 người được phép ký trên các hồ sơ thuế:
+ Người nộp thuế
+ Người đại diện hợp pháp của người nộp thuế, bao gồm: người đại diện theo pháp luật; người đại diện theo uỷ quyền (cho phép đại lý thuế ký).
Căn cứ theo quy định của Luật kế toán về nội dung ký báo cáo tài chính: “Báo cáo tài chính phải được người lập, kế toán trưởng và người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán ký. Người ký báo cáo tài chính phải chịu trách nhiệm về nội dung của báo cáo...”
Căn cứ những quy định trên thì người đại diện theo pháp luật có trách nhiệm, thẩm quyền ký trên hồ sơ thuế. Trong trường hợp đặc biệt, có thể uỷ quyền cho người đứng đầu 1 đơn vị trong cơ quan tổ chức ký thừa uỷ quyền trong 1 thời gian nhất định. Thủ tục uỷ quyền phải tuân thủ theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật dân sự, Luật Quản lý thuế và thể thức, chữ ký,... tuân theo quy định của pháp luật về công tác văn thư.
Thủ tục thuế liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế đối với ngân sách Nhà nước do vậy đề nghị Vụ Kê khai cân nhắc trả lời đơn vị vì quy định về công tác văn thư không hướng dẫn trường hợp nào là đặc biệt, giới hạn thời gian là bao lâu. Hơn nữa việc chấp nhận cho uỷ quyền ký tờ khai thuế như trên thì cũng phải chấp nhận các thủ tục khác như miễn, giảm, hoàn...
- Ý kiến của Vụ Chính sách (TCT) ngày 22/12/2010:
Vụ Chính sách cơ bản nhất trí với dự thảo công văn trả lời theo hướng: “Tổng giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán - người đứng đầu Phòng kế toán của Công ty ký các tờ khai, quyết toán thuế”.
Về vấn đề này, Tổng cục Thuế đã ban hành một số văn bản trả lời như: Công văn số 1498/TCT-PCCS ngày 24/4/2006; Công văn số 2589/TCT-CS ngày 6/7/2007,... Đồng thời tại dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 60/2007/TT-BTC (dự kiến áp dụng từ 1/1/2011) do Tổng cục Thuế chủ trì trình Bộ cũng có bổ sung quy định về việc uỷ quyền trong giao dịch với cơ quan thuế.
4. Ý kiến đề xuất của Vụ Kê khai và Kế toán thuế:
- Căn cứ các quy định trên, nộp thuế theo quy định của pháp luật là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi doanh nghiệp. Việc người đứng đầu Công ty (Tổng giám đốc) uỷ quyền cho người đứng đầu một đơn vị trong Công ty (Phụ trách phòng kế toán) ký thừa uỷ quyền các tờ kê khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế là dựa trên ý muốn đích thực của hai bên phù hợp với mục đích thực tế của giao dịch, trong phạm vi đại diện theo uỷ quyền. Do vậy, uỷ quyền trong nội bộ Công ty liên quan đến việc ký các văn bản về thuế theo thời hạn trên thông báo uỷ quyền gửi cho cơ quan thuế đến khi chấm dứt việc uỷ quyền của người đại diện được coi là hợp pháp.
- Theo công văn 1498/TCT-PCCS ngày 24/04/2006 thì “trường hợp đặc biệt, người đại diện theo pháp luật của cơ sở kinh doanh có thể uỷ quyền bằng văn bản cho cán bộ phụ trách dưới mình một cấp ký thừa uỷ quyền các văn bản nêu trên. Khi thực hiện quan hệ giao dịch với cơ quan thuế, người được uỷ quyền phải thông báo cho cơ quan thuế biết về thời hạn, phạm vi uỷ quyền hoặc khi có thay đổi về thời hạn, phạm vi được uỷ quyền” và công văn 2589/TCT-CS ngày 06/07/2007 cũng hướng dẫn đơn vị theo tinh thần của công văn 1498/TCT-PCCS nêu trên “Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc; Kế toán trưởng được ký thay Giám đốc các tờ khai thuế hàng tháng và hồ sơ hoàn thuế nếu được uỷ quyền theo quy định”.
Do vậy, đối với trường hợp Tổng giám đốc Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán ký các văn bản kê khai thuế, quyết toán thuế cũng như các thủ tục thuế khác của Công ty nếu đảm bảo việc uỷ quyền theo đúng quy định. Khi thực hiện quan hệ giao dịch với cơ quan thuế, người được uỷ quyền phải thông báo cho cơ quan thuế biết về thời hạn, phạm vi uỷ quyền hoặc khi có thay đổi về thời hạn, phạm vi được uỷ quyền.
- Theo công văn 1482/TCT-KK ngày 23/04/2009 thì “việc kê khai thuế không thuộc phạm vi giao dịch dân sự, do vậy, chủ doanh nghiệp không được uỷ quyền trong việc kê khai thuế...”.
Theo khoản 1 Điều 126 Luật Dân sự 2005:
“1. Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.”
Như vậy, việc kê khai thuế hay phát sinh các nghĩa vụ, quyền lợi khác về thuế là việc NNT thực hiện các thủ tục về thuế theo quy định của pháp luật về thuế, còn việc uỷ quyền ký các văn bản về thuế trong nội bộ một doanh nghiệp có thể hiểu đó là việc thực hiện một giao dịch dân sự. Mặt khác, xét điều kiện hiện tại của Công ty, Tổng giám đốc thường xuyên ở nước ngoài vì tính chất công việc nên việc Tổng giám đốc Công ty uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, đồng thời đảm bảo việc thực hiện, xử lý các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế của Công ty đúng thời hạn, tuân thủ đúng các quy định về thuế hiện hành.
- Theo ý kiến tham gia của Vụ Pháp chế (TCT) cũng nói rõ: Người đại diện hợp pháp của NNT hoặc NNT là người được ký trên hồ sơ thuế trong đó có người đại diện theo uỷ quyền.
Việc uỷ quyền ký các văn bản về thuế trong nội bộ Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn cũng là để xác định nghĩa vụ thuế đối với ngân sách Nhà nước được kịp thời, đầy đủ. Ngoài ra, quy định về việc uỷ quyền trong giao dịch với cơ quan thuế cũng đã có bổ sung trong tại dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 60/2007/TT-BTC trong ý kiến tham gia của Vụ Chính sách (TCT).
Vì vậy, Vụ Kê khai đề xuất như sau:
Tổng giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán - người đứng đầu Phòng kế toán của Công ty ký các tờ khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế trước khi nộp cho cơ quan thuế trong một thời gian nhất định và phải được ghi cụ thể trong thông báo uỷ quyền của Công ty gửi đến cơ quan thuế.
Nếu là người ngoài doanh nghiệp thì phải có hợp đồng ủy quyền theo quy định của Bộ Luật dân sự vì người đại diện theo ủy quyền này chỉ trực tiếp làm việc với cơ quan thuế về các nội dung, vấn đề mang tính chất thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp trên cơ sở đó thông báo lại các nội dung làm việc cho người đại diện theo pháp luật biết. Toàn bộ các chứng từ có liên quan đến lĩnh vực thuế người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm ký tên; đóng dấu và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các số liệu đã kê khai với cơ quan thuế.
Kính trình lãnh đạo Tổng cục xem xét, phê duyệt./.
      
   

Hà Nội, ngày      /12/2010
VỤ TRƯỞNG
Phạm Quốc Thái
 
 


TỔNG CỤC THUẾ
VỤ KÊ KHAI VÀ KẾ TOÁN THUẾ
 
 
TRÌNH TỔNG CỤC
V/v uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế
của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn
 
 
Theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Tổng cục tại tờ trình ngày 28/12/2010, Vụ Kê khai giải trình và đề xuất như sau:
- Nộp thuế theo quy định của pháp luật là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi doanh nghiệp. Việc người đứng đầu Công ty (Tổng giám đốc) uỷ quyền cho người đứng đầu một đơn vị trong Công ty (Phụ trách phòng kế toán) ký thừa uỷ quyền các tờ kê khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế là dựa trên ý muốn đích thực của hai bên phù hợp với mục đích thực tế của giao dịch, trong phạm vi đại diện theo uỷ quyền. Do vậy, uỷ quyền trong nội bộ Công ty liên quan đến việc ký các văn bản về thuế theo thời hạn trên thông báo uỷ quyền gửi cho cơ quan thuế đến khi chấm dứt việc uỷ quyền của người đại diện được coi là hợp pháp.
- Theo công văn 1498/TCT-PCCS ngày 24/04/2006 thì “trường hợp đặc biệt, người đại diện theo pháp luật của cơ sở kinh doanh có thể uỷ quyền bằng văn bản cho cán bộ phụ trách dưới mình một cấp ký thừa uỷ quyền các văn bản nêu trên. Khi thực hiện quan hệ giao dịch với cơ quan thuế, người được uỷ quyền phải thông báo cho cơ quan thuế biết về thời hạn, phạm vi uỷ quyền hoặc khi có thay đổi về thời hạn, phạm vi được uỷ quyền” và công văn 2589/TCT-CS ngày 06/07/2007 cũng hướng dẫn đơn vị theo tinh thần của công văn 1498/TCT-PCCS nêu trên “Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc; Kế toán trưởng được ký thay Giám đốc các tờ khai thuế hàng tháng và hồ sơ hoàn thuế nếu được uỷ quyền theo quy định”.
Do vậy, đối với trường hợp Tổng giám đốc Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán ký các văn bản kê khai thuế, quyết toán thuế cũng như các thủ tục thuế khác của Công ty nếu đảm bảo việc uỷ quyền theo đúng quy định. Khi thực hiện quan hệ giao dịch với cơ quan thuế, người được uỷ quyền phải thông báo cho cơ quan thuế biết về thời hạn, phạm vi uỷ quyền hoặc khi có thay đổi về thời hạn, phạm vi được uỷ quyền.
- Theo công văn 1482/TCT-KK ngày 23/04/2009 thì “việc kê khai thuế không thuộc phạm vi giao dịch dân sự, do vậy, chủ doanh nghiệp không được uỷ quyền trong việc kê khai thuế...”.
Theo khoản 1 Điều 126 Luật Dân sự 2005:
“Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.”
Như vậy, việc kê khai thuế hay phát sinh các nghĩa vụ, quyền lợi khác về thuế là việc NNT thực hiện các thủ tục về thuế theo quy định của pháp luật về thuế, còn việc uỷ quyền ký các văn bản về thuế trong nội bộ một doanh nghiệp có thể hiểu đó là việc thực hiện một giao dịch dân sự. Mặt khác, xét điều kiện hiện tại của Công ty, Tổng giám đốc thường xuyên ở nước ngoài vì tính chất công việc nên việc Tổng giám đốc Công ty uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán ký các văn bản về thuế của Công ty là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, đồng thời đảm bảo việc thực hiện, xử lý các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế của Công ty đúng thời hạn, tuân thủ đúng các quy định về thuế hiện hành.
- Theo ý kiến tham gia của Vụ Pháp chế (TCT) cũng nói rõ: Người đại diện hợp pháp của NNT hoặc NNT là người được ký trên hồ sơ thuế trong đó có người đại diện theo uỷ quyền.
Việc uỷ quyền ký các văn bản về thuế trong nội bộ Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn cũng là để xác định nghĩa vụ thuế đối với ngân sách Nhà nước được kịp thời, đầy đủ. Ngoài ra, quy định về việc uỷ quyền trong giao dịch với cơ quan thuế cũng đã có bổ sung trong tại dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 60/2007/TT-BTC trong ý kiến tham gia của Vụ Chính sách (TCT).
Nếu là người ngoài doanh nghiệp thì phải có hợp đồng ủy quyền theo quy định của Bộ Luật dân sự vì người đại diện theo ủy quyền này chỉ trực tiếp làm việc với cơ quan thuế về các nội dung, vấn đề mang tính chất thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp trên cơ sở đó thông báo lại các nội dung làm việc cho người đại diện theo pháp luật biết. Toàn bộ các chứng từ có liên quan đến lĩnh vực thuế người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm ký tên; đóng dấu và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các số liệu đã kê khai với cơ quan thuế.
Vì vậy, Vụ Kê khai đề xuất như sau:
Tổng giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán - người đứng đầu Phòng kế toán của Công ty ký các tờ khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế trước khi nộp cho cơ quan thuế trong một thời gian nhất định và phải được ghi cụ thể trong thông báo uỷ quyền của Công ty gửi đến cơ quan thuế.
Kính trình lãnh đạo Tổng cục xem xét, phê duyệt./.
      

Hà Nội, ngày      /12/2010
VỤ TRƯỞNG
Phạm Quốc Thái
 


 


TỔNG CỤC THUẾ
VỤ KÊ KHAI VÀ KẾ TOÁN THUẾ
 
 
TRÌNH TỔNG CỤC
V/v uỷ quyền ký các văn bản kê khai thuế và quyết toán thuế
của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn
 
 
Theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Tổng cục tại tờ trình ngày 31/12/2010, Vụ Kê khai đã hiệu chỉnh lại công văn thống nhất với hướng dẫn tại công văn 1498/TCT-PCCS ngày 24/04/2006 và công văn 2589/TCT-CS ngày 06/07/2007 của Tổng cục Thuế, thay thế hướng dẫn tại công văn 1482/TCT-KK ngày 23/04/2009 của Tổng cục Thuế về uỷ quyền kê khai thuế.
Việc kê khai thuế hay phát sinh các nghĩa vụ, quyền lợi khác về thuế là việc NNT thực hiện các thủ tục về thuế theo quy định của pháp luật về thuế, còn việc uỷ quyền ký các văn bản về thuế trong nội bộ một doanh nghiệp có thể hiểu đó là việc thực hiện một giao dịch dân sự. Do đó, việc uỷ quyền ký các văn bản về kê khai thuế, quyết toán thuế cũng như các văn bản khác trong nội bộ doanh nghiệp về thuế là không trái với các quy định của pháp luật. Còn uỷ quyền không phải trong nội bộ doanh nghiệp thì phải có hợp đồng uỷ quyền theo quy định của Bộ Luật dân sự.
Vì vậy, trường hợp của Công ty Lọc hoá dầu Nghi Sơn thì Tổng giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty được uỷ quyền cho Phụ trách phòng kế toán - người đứng đầu Phòng kế toán của Công ty ký các tờ khai, quyết toán thuế và các văn bản khác liên quan đến thuế trước khi nộp cho cơ quan thuế trong một thời gian nhất định và phải được ghi cụ thể trong thông báo uỷ quyền của Công ty gửi đến cơ quan thuế.
Kính trình lãnh đạo Tổng cục xem xét, phê duyệt./.
      

   
Hà Nội, ngày      /01/2011
VỤ TRƯỞNG
Phạm Quốc Thái
    

TỔNG CỤC THUẾ
VỤ KÊ KHAI VÀ KẾ TOÁN THUẾ
 
 
PHIẾU LẤY Ý KIẾN
 
Kính gửi: - Vụ Pháp chế (Tổng cục Thuế)
                             - Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế) 
 
Vụ Kê khai nhận được công văn số 169/NSRPLLC ngày 29/10/2010 của Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn đề nghị hướng dẫn về việc uỷ quyền ký các văn bản kê khai và quyết toán thuế của Công ty.
Kính đề nghị Quý Vụ cho ý kiến tham gia vào dự thảo công văn.
Ý kiến tham gia xin gửi về trước ngày       /12/2010.
Rất mong nhận được sự hợp tác của Quý Vụ.
Xin chân thành cảm ơn./.
 

Hà Nội, ngày     tháng 12 năm 2010
TM\VỤ KÊ KHAI & KẾ TOÁN THUẾ
Trần Ngọc Kim
 
 
Các chủ thể tham gia giao dịch đều có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm những điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, do đó các giao dịch về thuế vẫn có thể coi là thuộc phạm vi điều chỉnh của giao dịch dân sự.
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
“Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”.
“Giải thích giao dịch dân sự
Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”.
Điều 121; Khoản 1 Điều 122; Khoản 1 Điều 126 giao dịch dân sự, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, giải thích về giao dịch dân sự, quy định về.
Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Hiển thị:
download Văn bản gốc có dấu (PDF)
download Văn bản gốc (Word)

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

×
×
×
Vui lòng đợi