Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Báo cáo 96/BC-CP của Chính phủ về việc tóm tắt Đề án đổi mới tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Báo cáo 96/BC-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 96/BC-CP | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Báo cáo | Người ký: | Nguyễn Thiện Nhân |
Ngày ban hành: | 25/05/2009 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tài chính-Ngân hàng, Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề |
tải Báo cáo 96/BC-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHÍNH PHỦ ------------- Số: 96/BC-CP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------------- Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2009 |
BÁO CÁO TÓM TẮT
Đề án đổi mới tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014
---------------------
Kính gửi: Quốc hội.
Thực hiện Kết luận số 20-KL/TW ngày 28 tháng 01 năm 2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá X), Chính phủ đã xây dựng Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2008 - 2012. Đề án đã được báo cáo Bộ Chính trị ngày 05 tháng 3 năm 2009 và sau khi tiếp tục hoàn chỉnh đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13 tháng 5 năm 2009. Tiếp thu chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, để phù hợp với thời gian triển khai thực tế của Đề án, Chính phủ đã có tờ trình số 89/TTr-CP trình Quốc hội về Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014 vào ngày 20 tháng 5 năm 2009.
Ngày 22 tháng 5 năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Báo cáo đánh giá tác động của Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014 gửi Quốc hội.
Trên cơ sở hai báo cáo này và Đề án hoàn chỉnh, Chính phủ xin trình Quốc hội tóm tắt Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014 như sau:
I.SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC
Trong những năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà nước vẫn quan tâm dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn ngân sách đó, lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong khi nền kinh tế nước ta đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hơn 20 năm, đã hình thành các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày một tăng thì cơ chế tài chính của giáo dục thực tế vẫn chưa có thay đổi về chất so với thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp.
Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục 2009-2014 trình Quốc hội đã phân tích sâu và chỉ rõ 8 tồn tại của cơ chế tài chính giáo dục hiện nay và đó cũng chính là các bất hợp lý mà Đề án phải giải quyết nhằm đạt được 2 mục tiêu tổng quát của Đề án là:
- Xây dựng cơ chế tài chính mới cho giáo dục, nhằm huy động ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã hội để nâng cao chất lượng và tăng quy mô giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực sự coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
- Xây dựng hệ thống các chính sách để tiến tới mọi người ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng ngày càng cao.
Thực tế nhiều năm qua, ngành giáo dục cả nước phải đối đầu với 8 bất hợp lý của cơ chế tài chính giáo dục sau đây:
1. Ngành giáo dục không có điều kiện đánh giá hiệu quả chi của nhà nước cho giáo dục, các cơ quan quản lý giáo dục và nhân dân không đánh giá được chất lượng giáo dục trong tương quan với chi của nhà nước và người dân cho giáo dục, nhất là đào tạo nghề nghiệp:
- 74% ngân sách nhà nước dành cho giáo dục do các Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý, 21 % do các Bộ ngành khác quản lý, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý 5%. Không có quy định về chế độ báo cáo sử dụng ngân sách cho giáo dục do các địa phương và Bộ ngành khác quản lý cho Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Các trường không công khai cam kết chất lượng giáo dục, không công bố đánh giá thực tế chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục, không công bố nguồn lực thực tế của nhà trường phục vụ đào tạo (giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo …), không công khai tài chính của nhà trường để nhà nước và người dân dễ dàng kiểm tra, giám sát.
2. Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục chưa gắn chặt với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo (đội ngũ giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất...), chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học ở giáo dục nghề nghiệp, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp và bình quân. Việc xây dựng định mức chi và phân bổ ngân sách cho giáo dục chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Việc giao kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm chưa gắn với kế hoạch phát triển trung hạn và dài hạn của ngành, gây khó khăn cho việc chủ động sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ, chế độ, chính sách và cân đối giữa nhu cầu chi với khả năng nguồn lực tài chính công.
3. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về việc sử dụng kinh phí cho giáo dục từ ngân sách và của người dân (qua học phí) sao cho hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô giáo dục là không rõ ràng. Người đứng đầu cơ sở giáo dục nếu sử dụng kinh phí giáo dục không hiệu quả, không quan tâm thoả đáng đến yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, hầu như không bị chế tài gì. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp, nếu phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước cho giáo dục không hợp lý, không giám sát được hiệu quả chi cho giáo dục, thực tế hầu như không bị chế tài gì.
4. Trong 10 năm qua từ năm 1999-2008:
- Tổng sản phẩm nội địa (danh nghĩa) bình quân đầu người ở nước ta tăng 4,7 lần (năm 1999 là 3,6 triệu đồng/người/năm, năm 2008 là 17 triệu đồng/người/năm).
- Lương tối thiểu theo quy định của nhà nước tăng 1,86 lần (năm 1998 là 290.000đ/người/tháng, năm 2008 là 540.000đ/người/tháng).
- Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng 5,8 lần (ngân sách giáo dục năm 1999 là 14.000 tỷ đồng, năm 2008 là 81.400 tỷ đồng).
- Quy mô học sinh học nghề, trung cấp chuyên nghiệp, sinh viên cao đẳng, đại học tăng 2,3 lần (năm 1998 có 1,84 triệu học sinh học nghề, sinh viên, năm 2008 là 4,3 triệu).
- Chỉ số giá cả tiêu dùng tăng gấp 2 lần (1 triệu đồng của năm 2008 có sức mua hàng chỉ tương tương 500.000đ năm 1998).
Nhưng khung học phí 10 năm không thay đổi dẫn đến hậu quả tổng nguồn lực của đất nước huy động cho giáo dục đào tạo vẫn rất hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, gây bất hợp lý thêm trong hệ thống giáo dục:
- Năm 2006, chi bình quân cho 1 học sinh, sinh viên ở nước ta là 723 USD (quy đổi sức mua tương đương), chỉ bằng 1/4 của Thái Lan (3.170 USD) và Malaysia (3.031 USD), bằng 1/8 của Hàn Quốc (5.733 USD), chưa bằng 1/10 của Đức (7.368), của Nhật (7.789 USD) và chỉ bằng 1/16 của Mỹ (12.023 USD).
- Năm 2001, tổng thu học phí ở tất cả các cấp giáo dục công lập từ mầm non đến đại học chiếm 8,2% tổng chi cho giáo dục (gồm chi từ ngân sách và từ học phí), năm 2005 là 7,3%, năm 2006 là 6,7%, năm 2008 là 5,5% và nếu khung học phí hiện nay vẫn giữ đến 2011 thì tỷ lệ này chỉ còn 4%. Tức là càng ngày đóng góp của học phí vào tổng chi đào tạo ở các trường càng giảm, năm 2011 chỉ bằng 1/2 năm 2001.
- Do mất giá đồng tiền, nên học phí đại học 180.000 đồng/tháng năm 2008 chỉ có giá trị 90.000 đồng/tháng so với năm 1998 khi khung học phí được ban hành.
- Trong thời gian qua Nhà nước tăng lương tối thiểu từ 290.000 đồng/ người/tháng (năm 1998) lên 540.000 đồng/người/tháng (năm 2008), song yêu cầu các trường giải quyết nguồn trả lương tăng lên này trong nguồn thu học phí là chủ yếu, mà học phí thì không tăng, nên các trường phải dành tỷ lệ trong tổng thu của trường cho trả lương ngày một cao, phần dành cho giáo trình, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy ngày càng ít đi, ảnh hưởng ngày càng lớn đến chất lượng đào tạo. Mặt khác, để có thể đảm bảo thu nhập tối thiểu cho giáo viên, phần nào hạn chế việc giáo viên giỏi chuyển ra các trường ngoài công lập dạy hoặc làm ở các công ty vì có thu nhập cao hơn thì các trường phải tăng số lượng sinh viên, làm cho tỷ lệ sinh viên/giảng viên vẫn ở mức rất cao (30 - 50 sinh viên, thậm chí 100 sinh viên/giảng viên), ngược lại với yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và đòi hỏi của xã hội.
- Với mức học phí đại học 180.000 đồng/tháng, chi phí đào tạo cho 4 năm hoặc 5 năm học để trở thành kỹ sư, cử nhân, người học phải trả là 7,2 triệu đến 9 triệu đồng, trong khi ra trường ngay năm đầu tiên đi làm, thu nhập của các kỹ sư, cử nhân đã từ 1,2 triệu đồng đến 3 triệu đồng/tháng, tức là 14,4 triệu đến 36 triệu đồng/năm. Có nghĩa là thu nhập chỉ từ 3 đến 8 tháng lương sau khi ra trường đã bằng toàn bộ học phí của cả quá trình đào tạo.
5. Học sinh thuộc gia đình thu nhập thấp, nếu ở các vùng khó khăn được miễn giảm học phí. Tuy nhiên, nếu họ nghèo tới mức không dành được mỗi năm khoảng 600.000 đến 700.000 đồng để mua sách vở, đồ dùng học tập, đồng phục, giày dép… cho con đi học thì các em cũng không thể tới trường. Vì vậy, Đề án đề xuất ngoài việc hỗ trợ người nghèo qua miễn học phí, mà còn phải trợ cấp thêm tiền để các hộ này có thể đưa con đi học.
6. Với các hộ gia đình có thu nhập bình quân trên 1,5 triệu đồng/người/tháng (6 triệu đồng/hộ 4 người/tháng) thì mức học phí trung học phổ thông tối đa là 35.000 đồng/tháng là rất thấp, dưới khả năng chi trả của họ. Nếu có 2 con đi học thì chi phí học tập chỉ tương đương 3,3% thu nhập của gia đình. Họ có thể đóng góp cao hơn để bớt đi phần bao cấp của nhà nước cho người thu nhập cao, mà dành phần ngân sách đó hỗ trợ, chăm lo cho người nghèo. Song theo quy định hiện nay, trường cũng không thể thu học phí hơn 35.000 đồng/tháng.
7. Nhà nước thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho sinh viên diện chính sách, song không bù đắp chi phí này cho các trường; mà các trường phải tự cân đối từ thu học phí của sinh viên khác. Kết quả là nếu nhận nhiều sinh viên diện chính sách bao nhiêu, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành giáo dục bao nhiêu thì, trường càng gặp khó khăn về tài chính bấy nhiêu.
8. Sinh viên sư phạm được miễn đóng học phí, song có một số nhất định sau khi ra trường không làm việc cho ngành giáo dục. Điều này là một sự không công bằng, làm giảm hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho giáo dục.
II. TÁM NỘI DUNG ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC
Đề án đã trình bày chi tiết nội dung của 8 nhóm giải pháp đổi mới cơ chế tài chính giáo dục:
1. Đổi mới phương thức xây dựng và giao kế hoạch ngân sách, cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước cho các mục tiêu của giáo dục:
2. Xác định trách nhiệm và quyền hạn hợp lý của các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch ngân sách giáo dục.
3. Xây dựng cơ chế thích hợp để huy động các nguồn lực cho giáo dục:
4. Đổi mới chính sách học phí và hỗ trợ người học:
5. Chính sách đối với giáo viên:
6. Trách nhiệm của các cơ sở giáo dục trong quản lý tài chính:
7. Giám sát tài chính giáo dục:
8. Xác định học phí và hỗ trợ của nhà nước và địa phương:
Để cơ chế tài chính giáo dục thực sự có vai trò đảm bảo và tạo động lực cho giáo dục trong 10 năm tới, cần triển khai tất cả 8 nhóm giái pháp đổi mới cơ chế tài chính giáo dục, trong đó 7 nhóm giải pháp chủ yếu liên quan đến việc làm như thế nào, chỉ có giải pháp thứ 8 liên quan đến xác định mức học phí và hỗ trợ của Nhà nước cho người học. Sau đây Chính phủ xin báo cáo Quốc hội sâu hơn về nội dung này:
Mức học phí được phân biệt giữa chương trình đào tạo đại trà (chương trình đạt mức chất lượng cần thiết tối thiểu) và chương trình đào tạo chất lượng cao.
Nguyên tắc xác định học phí:
- Học phí của các trường mầm non và phổ thông công lập đại trà:
Đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông (trung học cơ sở, trung học phổ thông) học phí không là gánh nặng tài chính đối với gia đình người học, mà luôn là khả thi. Điều này được bảo đảm khi học phí và các khoản chi cần thiết khác cho việc học tập không vượt quá 6% thu nhập bình quân của hộ gia đình.
- Học phí đối với giáo dục nghề nghiệp từ bậc sơ cấp đến bậc trung cấp, cao đẳng và đại học thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí giữa nhà nước và người học, học phí phải đảm bảo bù đắp chi phí tiền lương, từng bước đảm bảo chi thường xuyên tối thiểu của các nhóm ngành đào tạo. Đây là yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X), về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo nguyên tắc trên, học phí bình quân của các tỉnh cho giáo dục mầm non và phổ thông công lập ở các tỉnh trong cả nước đã được trình bày ở Đề án. Với các hộ dân có thu nhập rất thấp, nếu 6% thu nhập chưa bảo đảm chi đủ cho các nhu cầu như dụng cụ học tập, sách giáo khoa, quần áo đồng phục, đi lại tối thiểu... thì được Nhà nước hỗ trợ thêm, ngoài việc miễn học phí.
Theo nguyên tắc học phí phù hợp với khả năng chi trả, trong một tỉnh có các vùng có mức thu nhập khác nhau có thể có mức học phí khác nhau. Sau đây là ví dụ mức học phí cho các hộ dân có thu nhập khác nhau ở một tỉnh có thu nhập bình quân toàn tỉnh là 700.000 đồng/người/tháng tương đương thu nhập ở một tỉnh đồng bằng năm 2008, với 3 vùng dân cư: vùng đô thị (thu nhập bình quân 800.000 đồng/người/tháng), vùng các huyện đồng bằng (thu nhập bình quân 650.000 đồng/người/tháng), vùng các huyện miền núi (thu nhập bình quân 400.000 đồng/người/tháng).
Đối với vùng đô thị của địa phương nói trên, thu nhập bình quân là 800.000 đồng/người/tháng. Tức là đa số người dân có thu nhập từ mức này trở lên và ứng với nó là mức học phí 35.000 đồng/tháng. Về nguyên tắc người có thu nhập hơn 800.000 đồng/tháng sẽ phải đóng học phí cao hơn 35.000 đồng/tháng. Ví dụ thu nhập 850.000 đồng/tháng thì phải đóng học phí là 41.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, vì số người có thu nhập cao trên trung bình không nhiều, và để đơn giản cho việc thu học phí, thì những người có thu nhập cao hơn mức trung bình 800.000 đồng/tháng cũng chỉ đóng học phí như người có mức thu nhập 800.000 đồng/tháng. Tức là người đi học được lợi hơn, còn Nhà nước thì thu được ít hơn là khả năng các hộ có thể đóng góp cho việc học tập của con em trong khả năng chi trả bình thường (6% thu nhập) của họ. Như vậy, với vùng đô thị, mức học phí cơ bản cho đa số học sinh là 35.000 đồng/tháng.
Nhưng đối với những hộ gia đình có thu nhập dưới mức trung bình 800.000 đồng/tháng/người tới 650.000 đồng/tháng/người đều chỉ đóng một mức học phí được giảm là 17.000 đồng/tháng, tương ứng với thu nhập 650.000 đồng/tháng. Vào đầu năm học, hộ gia đình nào cho rằng con mình xứng đáng hưởng chế độ học phí 17.000 đồng/tháng thì làm đơn xin giảm học phí nộp cho trường và chỉ đóng trong 3 tháng đầu mức này. Trong tháng sau đó gia đình lấy xác nhận của địa phương là thu nhập bình quân của gia đình là dưới 800.000 đồng/tháng/người đến 650.000 đồng/tháng/người. Nếu gia đình không trình được giấy xác nhận thì phải đóng học phí ở mức 35.000d/tháng. Còn nếu gia đình có xác nhận là thu nhập dưới 650.000 đồng/tháng/người thì không phải đóng học phí.
Ở khu vực đồng bằng mức học phí phổ biến cho đa số học sinh là 17.000 đồng/tháng với mức thu nhập từ 650.000 đồng/tháng trở lên. Người có thu nhập dưới 650.000 đồng/tháng tới 508.000 đồng/tháng thì được miễn học phí. Còn dưới 508.000 đồng/tháng thì được hỗ trợ 13.000 đồng/tháng
Đối với huyện miền núi có thu nhập bình quân 400.000 đồng/tháng thì thực tế sẽ miễn học phí cho tất cả học sinh, ngoài ra đa số còn được hỗ trợ 13.000 đồng/tháng, một số ít được hỗ trợ 50.000 đồng/tháng để giúp gia đình mua sách, vở, đồ dùng học tập cho các em (ngoài 6% thu nhập các gia đình đã dành cho việc này).
Thực hiện nguyên tắc chi phi học tập không vượt quá 6% thu nhập của hộ gia đình, với mức thu nhập bình quân dự báo cho các tỉnh vào năm 2010, ta có học phí bình quân các tỉnh như sau:
Thu nhập bình quân đầu người /tháng | Lai Châu | Điện Biên | Thanh Hóa | Kon Tum | Sóc Trăng | Hà Nội |
503.000đ | 562.000đ | 728.000đ | 820.000đ | 913.000đ | 1.936.000đ | |
Học phí bình quân/tháng | -12.000đ (hỗ trợ) | -5.000đ (hỗ trợ) | 15.000đ | 26.000đ | 38.000đ | 160.000đ |
Theo đó, ở Lai Châu mỗi cháu đi học được Nhà nước hỗ trợ 12.000 đồng/tháng để gia đình có thể mua sách vở, cặp giày dép, đồng phục đi học với mức bình quân 72.000 đồng/tháng/học sinh. Hà Nội có thu nhập bình quân 1,936 triệu đồng/người/tháng hay 7,744 triệu đồng/hộ 4 người/tháng thì mức học phí là 160.000 đồng/tháng.
- Học phí của các trường phổ thông chuyên và các trường dân tộc nội trú:
Các trường phổ thông chuyên là cơ sở giáo dục để đào tạo nhân tài của các địa phương. Các trường được đầu tư cao từ ngân sách và vận động xã hội tài trợ để các em có điều kiện học tập, rèn luyện đặc biệt tốt. Mức học phí ở các trường phổ thông chuyên thực hiện theo quy định chung của địa phương, không cao hơn các trường phổ thông đại trà khác trên địa bàn.
Các trường dân tộc nội trú được Nhà nước đầu tư, hỗ trợ hoàn toàn chi phí hoạt động, người học không phải đóng học phí.
- Học phí của các cơ sở đào tạo công lập: các trường nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học công lập được xác định mức thu học phí theo nhóm ngành nghề đào tạo trong khung học phí quy định của Chính phủ.
Khung học phí đại học trần và khung học phí của trung cấp nghề, cao đẳng nghề trần của các nhóm ngành đào tạo giai đoạn 2010 - 2014 dự kiến như sau:
Khung học phí đại học trần của các nhóm ngành đào tạo
đại trà giai đoạn 2009 – 2014
Đơn vị: Nghìn đồng/tháng/sinh viên
Nhóm ngành | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | Năm 2014 |
1. Khoa học xã hội, kinh tế, luật | 180 | 255 | 290 | 350 | 410 | 480 | 550 |
2. Kỹ thuật, công nghệ | 180 | 255 | 310 | 390 | 480 | 560 | 650 |
3. Khoa học tự nhiên | 180 | 255 | 310 | 390 | 480 | 560 | 650 |
4. Nông - lâm - thuỷ sản | 180 | 255 | 290 | 350 | 410 | 480 | 550 |
5. Y dược | 180 | 255 | 340 | 450 | 560 | 680 | 800 |
6. Thể dục thể thao, nghệ thuật | 180 | 255 | 310 | 390 | 480 | 560 | 650 |
7. Sư phạm |
|
| 280 | 330 | 380 | 440 | 500 |
Khung học phí của trung cấp nghề và cao đẳng nghề trần
của các nhóm nghề đào tạo đại trà giai đoạn 2010 - 2014
Đơn vị: Nghìn đồng/tháng/học sinh
Nhóm ngành | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 | Năm 2011 | Năm 2012 | Năm 2013 | Năm 2014 |
1. Khối thăm dò địa chất, thuỷ văn, khí tượng | 120 | 170 | 270 | 370 | 470 | 580 | 700 |
2. Khối hàng hải | 120 | 170 | 260 | 340 | 420 | 500 | 610 |
3. Khối y tế, dược | 120 | 170 | 250 | 330 | 410 | 490 | 580 |
4. Khối cơ khí luyện kim, kỹ thuật nhiệt và điện, kỹ thuật xây dựng | 120 | 170 | 240 | 320 | 400 | 480 | 560 |
5. Khối công nghệ lương thực và thực phẩm | 120 | 170 | 230 | 310 | 380 | 460 | 540 |
6. Khối kỹ thuật bảo quản và vật tư hàng hoá | 120 | 170 | 230 | 300 | 380 | 460 | 530 |
7. Khối văn hoá, thể thao - du lịch | 120 | 170 | 230 | 300 | 380 | 460 | 520 |
8. Khối kỹ thuật điện tử, bưu chính viễn thông | 120 | 170 | 230 | 300 | 370 | 430 | 500 |
Mức học phí đào tạo tăng hàng năm theo dự kiến trên là nhằm:
- Bảo đảm chi trả lương tăng lên theo kế hoạch của Chính phủ để tiền lương thực sự là phần thu nhập đủ sống chủ yếu của công chức và viên chức trong cơ sở công lập;
- Tăng cường từng bước cơ sở vật chất cho giáo dục để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo;
- Không tạo ra sự tăng đột ngột, mức độ lớn của việc đóng học phí, gây khó khăn cho người học. Mức tăng học phí năm 2010 so với năm 2009 và của các năm sau so với năm trước liền kề cho sinh viên đại học là dưới 33%.
Riêng năm học 2009 - 2010, trong khi chưa thực hiện việc thay đổi cách đóng học phí theo Đề án từ năm 2010 - 2014, học phí đào tạo sẽ tăng bằng 50% mức mất giá đồng tiền năm 2008 so với năm 2000. Theo đó học phí đại học tăng thêm 75.000 đồng/tháng từ 180.000 đồng/tháng lên 255.000 đồng/tháng, học phí học nghề tăng thêm 50.000 đồng/tháng từ 120.000 đồng/tháng lên 170.000 đồng/tháng. Nếu học phí tăng đủ để bù mức mất giá đồng tiền năm 2008 so với năm 2000 thì học phí ở bậc đại học sẽ là 331.000 đồng/tháng thì mới tương đương với mức học phí 180.000 đồng/tháng vào năm 2000.
- Học phí đào tạo hệ vừa làm vừa học: mức học phí đảm bảo bù đắp chi phí thường xuyên tối thiểu và không vượt quá 150% mức học phí chính quy cùng cấp học và các nhóm ngành nghề đào tạo.
- Học phí của các cơ sở giáo dục ngoài công lập và của nhà đầu tư nước ngoài:
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập và của nhà đầu tư nước ngoài được tự quyết định mức thu học phí, nhưng phải thực hiện 3 công khai: chất lượng đào tạo, nguồn lực đào tạo (giáo viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học…) và tài chính, đóng thuế theo quy định của Nhà nước.
Công bố và sử dụng học phí:
Hàng năm, cơ sở đào tạo công lập căn cứ vào khung học phí trần do nhà nước quy định, tự xác định mức học phí của mỗi ngành học cho từng năm học của cả khóa học và thông báo công khai cho người học biết trước khi thông báo tuyển sinh năm học mới. Cơ sở đào tạo công lập quy định việc sử dụng học phí trong quy chế chi tiêu nội bộ được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tiền thu học phí của các cơ sở công lập phải gửi Kho bạc Nhà nước để giám sát chi tiêu.
- Đối với chương trình chất lượng cao tại các cơ sở công lập: phần chi phí tăng thêm ngoài phần chi của Nhà nước để có chất lượng cao hơn sẽ do người học chi trả.
- Các cơ sở giáo dục ngoài công lập được quyền chủ động xây dựng mức học phí, thông báo công khai mức học phí cho từng năm học (khối mầm non và phổ thông) hoặc cả khóa học (khối đào tạo nghề nghiệp) đồng thời thực hiện 3 công khai để nhà nước, người học, gia đình người học và xã hội tham gia giám sát, đánh giá.
III. CÁC Ý KIẾN KHÁC NHAU TRONG QUÁ TRÌNH GÓP Ý ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC
1. Về công bằng xã hội trong việc đóng học phí đối với giáo dục phổ thông và mầm non.
Đối với giáo dục mầm non và phổ thông thực tế trong các năm qua, phần chi của Nhà nước giữ vai trò quyết định. Tại các trường công lập, phần đóng góp của người dân qua học phí và chí phí khác chỉ chiếm 7,9% tổng chi phí đào tạo, phần nhà nước chi chiếm 92,1%. Nếu kể cả chi của người dân cho giáo dục ở các trường ngoài công lập, thì tổng chi của người dân chiếm 21,8% tổng chi cho giáo dục ở các trường công lập và ngoài công lập, phần nhà nước chi chiếm 78,2%. Với mức chi nhà nước cho giáo dục là có hạn bằng 20% ngân sách, đã thuộc vào loại cao của thế giới, thì việc đóng góp của người dân cho giáo dục từ mầm non tới phổ thông sẽ góp phần tăng chất lượng và quy mô giáo dục.
Tuy nhiên, việc đóng góp cũng phải làm sao cho khả thi, nằm trong khả năng chi trả của gia đình, không thành gánh nặng cho gia đình. Qua nghiên cứu số liệu học phí và thu nhập của hộ gia đình các nước, Đề án đã cho thấy, tỷ lệ chi cho việc đi học so với thu nhập của hộ gia đình ở các nước tuy khác nhau, song đều nằm trong khoảng từ 2% đến 10%, bình quân từ 4,5% đến 5,7%. Vì vậy, Đề án đề xuất mức chi trả cho việc học so với thu nhập của hộ gia đình không quá 6% thì việc chi trả đó được coi là khả thi, không gây gánh nặng tài chính cho gia đình.
Nếu lấy mức học phí mầm non, trung học cơ sở, trung học phổ thông mà Chính phủ quy định từ năm 1998 và chi phí khác cho học tập là khoảng 30.000 đồng/tháng/học sinh (để mua sách vở, đồ dùng học tập, đi lại) thì chi phí cho việc học so với thu nhập của hộ gia đình chiếm từ 4,8% đến 12%, bình quân khoảng 9%.
Như vậy, việc xác định giới hạn chi phí cho học tập không vượt quá 6% thu nhập của hộ gia đình trong Đề án vừa phù hợp với mức bình quân của các nước, vừa dễ dàng chi trả hơn là các mức học phí tối đa được quy định năm 1998 so sánh với thu nhập hộ dân lúc bấy giờ.
Quan điểm của Đề án về công bằng xã hội trong trách nhiệm gia đình đóng góp vào chi phí giáo dục cho con em mình là: gia đình có thu nhập thấp thì đóng góp ít hơn là gia đình có thu nhập cao, nhưng trong mọi trường hợp, chi phí học tập đều không vượt quá 6% thu nhập và đều không là gánh nặng tài chính cho gia đình. Có quan điểm khác được đề cập về công bằng xã hội khi bàn về học phí là: mọi người dân thu nhập thấp hay cao, đều chỉ đóng học phí như nhau, còn phần rất lớn chi phí học tập cho một học sinh là do nhà nước chịu. Nhà nước phải bao cấp giáo dục cho người thu nhập thấp và thu nhập cao như nhau. Đề án không theo quan điểm này, mà cho rằng, để có nhiều trẻ đi học được và nâng cao chất lượng giáo dục không nên chỉ trông chờ vào bao cấp của Nhà nước, mà các hộ dân cần đóng góp (tiền học phí) theo khả năng của mình. Người thu nhập cao đóng nhiều hơn, người thu nhập thấp không đóng học phí, thậm chí được nhà nước cấp tiền hàng tháng để đưa con em đi học.
2. Vì sao không miễn hết học phí cho giáo dục trung học cơ sở, trong khi tiểu học lại được miễn phí ?
Năm 2008, cả nước có 6,27 triệu học sinh trung học cơ sở, tổng học phí thu được 2.046 tỷ đồng. Chi phí đào tạo ở trung học cơ sở (chi thường xuyên) khoảng 2,4 triệu đồng/năm/học sinh. Như vậy nếu miễn hết học phí cho học sinh trung học cơ sở thì sẽ hụt chi giáo dục trung học cơ sở khoảng 2.046 tỷ đồng, tương ứng với chi phí đào tạo cho 852.000 học sinh trung học cơ sở. Tức là nếu miễn hết học phí trung học cơ sở trong điều kiện ngân sách giáo dục không tăng tương ứng được thì quy mô giáo dục trung học cơ sở sẽ giảm 852.000 học sinh.
Để giữ vững quy mô và nâng cao từng bước chất lượng giáo dục trung học cơ sở, chúng tôi đề xuất không miễn phí toàn bộ học phí cho bậc trung học cơ sở, mà đóng học phí theo khả năng chi trả của hộ dân, miễn giảm học phí cho hộ chính sách, hộ nghèo.
3. Vì sao không miễn học phí cho bậc học mầm non, trong khi trẻ lại được khám chữa bệnh miễn phí ?
Năm 2008, có 3,39 triệu học sinh mầm non. Chi phí giáo dục bình quân cho 1 học sinh mầm non là 2,56 triệu đồng/năm. Như vậy, nếu miễn học phí bậc mầm non thì cả các em đang ở nhà không đi học sẽ đi học. Số học sinh mầm non mới dự kiến sẽ là 6 triệu em. Để đưa số em này đến trường, Nhà nước phải chi là 15.360 tỷ đồng/năm. Trong điều kiện ngân sách giáo dục không tăng, thì nếu nhà nước chi 15.360 tỷ đồng để phổ cập miễn phí mầm non, thì sẽ không còn ngân sách cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề công lập (năm 2006 ngân sách nhà nước cấp cho các trường này là 9.986 tỷ đồng) và vẫn thiếu 5.374 tỷ đồng nữa. Sẽ phải cắt bớt ngân sách chi cho trung học phổ thông. Ngân sách chi cho trung học phổ thông năm 2006 là 5.663 tỷ đồng. Tức là nếu cắt giảm 5.374 tỷ đồng của trung học phổ thông thì gần 95% học sinh trung học phổ thông ở các trường công lập phải nghỉ học.
Như vậy, nếu dùng kinh phí Nhà nước để phổ cập mầm non miễn phí thì tất cả các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, trường dạy nghề công lập và hơn 90% các trường trung học phổ thông công lập phải ngừng hoạt động. Rõ ràng phương án này trong điều kiện hiện nay sẽ gây thiệt hại cho đất nước .
4. Mức tăng học phí từ 180.00 đồng/tháng lên 255.000 đồng/tháng vào năm 2009 là quá cao, gây khó khăn cho gia đình sinh viên ?
Việc tăng học phi thêm 75.00 đồng/tháng vào học kì I năm học 2009 -2010 thực ra mới bằng 1/2 mức mất giá của đồng tiền váo năm 2008 so với năm 2000. Nếu Nhà nước tăng mức cho sinh viên vay để học từ 800.000 đồng/tháng lên 900.000 đồng/tháng thì sinh viên có thể trả được mức tăng học phí này mà không gây xáo động về tài chính gia đình, đồng thời các trường đại học có thêm nguồn kinh phí đáng kể để nâng cao chất lượng đào tạo.
5. Đây là Đề án tài chính giáo dục có tính nhân văn cao hay là Đề án tăng học phí, không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa ?
Trong điều kiện mức ngân sách dành cho giáo dục là 20% tổng ngân sách quốc gia hàng năm, đã vào loại cao so với các nước, khó có thể tăng thêm, nhưng do thu nhập đầu người của ta còn rất thấp so với các nước, nên chi phí toàn xã hội bình quân cho 1 người đi học chỉ bằng khoảng 1/4 của Thái Lan và Malaysia, 1/8 của Hàn Quốc, 1/11 của Nhật và Pháp, 1/16 của Mỹ, thì yêu cầu vừa tăng quy mô giáo dục và đào tạo ở các cấp học, vừa tăng chất lượng giáo dục và đào tạo là một mâu thuẫn căn bản, thường xuyên. Khi tổng nguồn lực của xã hội cho giáo dục và đào tạo là có hạn, thì càng tăng quy mô, chất lượng sẽ có xu hướng tất yếu là giảm, hoặc đặt yêu cầu chất lượng giáo dục phải càng cao, thì quy mô giáo dục phải giảm.
Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục 2009 - 2014 chính là nỗ lực sáng tạo của Chính phủ để từng bước giải quyết mâu thuẫn nói trên.
Giải pháp căn bản của Chính phủ cho mâu thuẫn trên là: sử dụng kinh phí cho giáo dục và đào tạo có hiệu quả ngày càng cao hơn và tăng nguồn lực quốc gia cho giáo dục từ ngân sách nhà nước và từ đóng góp của người dân, nhưng sự đóng góp của người dân phù hợp với khả năng thu nhập của họ, không là gánh nặng về tài chính.
Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục gồm 8 nội dung thì 7 nội dung là nhằm làm cho việc sử dụng ngân sách và đóng góp của người dân cho giáo dục có hiệu quả ngày càng cao. 7 loại giải pháp này cần triển khai ngay mà không phụ thuộc vào mức học phí là bao nhiêu.
Việc chọn yêu cầu tổng chi cho giáo dục phổ thông và mầm non của hộ gia đình không vượt quá 6% thu nhập của họ, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước và thực tế của Việt Nam từ 1998, kèm theo nó là yêu cầu có tính nguyên tắc là phải hỗ trợ thêm cho các gia đình có thu nhập rất thấp để con em họ có thể đến trường là giải pháp vừa có tính nhân văn rất cao, vì học phí không bao giờ là gánh nặng tài chính cho gia đình, vừa góp phần huy động sự đóng góp của xã hội nhiều hơn cho giáo dục.
Khi Nhà nước đã đảm bảo gần 80% chi phí cho giáo dục phổ thông và mầm non của xã hội, thì việc người dân đóng góp vào việc học hành của con em mình là hoàn toàn cần thiết, vì điều này góp phần tăng quy mô và chất lượng giáo dục. Nếu đòi hỏi người có thu nhập cao cũng chỉ đóng góp như người có thu nhập thấp cho việc học hành của con em mình, còn lại là nhà nước phải lo, thì đây là cách làm nặng bao cấp, không bình đẳng, dẫn đến hiệu quả là quy mô và chất lượng giáo dục bị giảm.
Để khắc phục chi phí đào tạo quá thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo, Đề án đã đề xuất việc tăng học phí đào tạo theo lộ trình và kèm theo đó là chương trình của Chính phủ cho học sinh học nghề, sinh viên hộ nghèo, cận nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn được vay để trả học phí và hỗ trợ chi trả các chi phí khác của việc học tập. Cả nước hiện nay có 1,7 triệu sinh viên đại học, cao đẳng, thì đã có 800.000 sinh viên được vay để học, tương đương tỷ lệ 47%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo cả nước không quá 15%. Chúng ta đang thực hiện một yêu cầu hết sức nhân văn: không một sinh viên nào đỗ đại học, cao đẳng, trung cấp, đào tạo nghề mà phải bỏ học vì không có điều kiện đóng học phí. Vì vậy, cần khẳng định, cách xác định học phí phổ thông, mầm non và đào tạo nghề nghiệp và các giải pháp hỗ trợ học tập của Đề án thể hiện tính nhân văn cao, là biểu hiện của định hướng chủ nghĩa xã hội.
IV. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2009 - 2014
1. Ngân sách nhà nước và đóng góp của người dân (học phí, tự nguyện, quyên góp) được sử dụng hiệu quả hơn hẳn, vì:
- Trách nhiệm của các cấp quản lý nhà nước trong việc lập kế hoạch ngân sách cho giáo dục và chính sách sao cho có hiệu quả là rõ ràng, được đánh giá công khai, tạo tiền đề cho việc xử lý trách nhiệm cá nhân và tổ chức (4 kiểm tra: 1. Kiểm tra việc chi cho giáo dục có đúng quy định về mức chi ngân sách không; 2. Kiểm tra về chi cho các địa bàn, chương trình có phù hợp nhu cầu không; 3. Kiểm tra việc thu và sử dụng học phí; 4. Kiểm tra việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia ở địa phương - kiên cố hoá, nhà công vụ, tin học hoá…).
- Các cơ sở giáo dục phải thực hiện 3 công khai: 1. Công khai cam kết và thực tế chất lượng giáo dục; 2. Công khai nguồn lực của cơ sở đào tạo; 3. Công khai tài chính. Đây là cơ sở hết sức quan trọng để nhà nước và nhân dân kiểm tra, đánh giá chất lượng và tình hình tài chính của cơ sở giáo dục.
- Hệ thống quản lý giáo dục yêu cầu tất cả các trường học phải thực hiện đánh giá chất lượng theo chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành từ tự đánh giá đến được kiểm định bởi một tổ chức độc lập có thẩm quyền được nhà nước cho phép. Đây là căn cứ rất quan trọng để phụ huynh và người học chọn trường, tạo áp lực cạnh tranh lành mạnh để các trường phát triển và để nhà nước kiểm tra, quản lý các cơ sở giáo dục (đóng cửa các cơ sở giáo dục chất lượng kém kéo dài).
2. Công bằng xã hội cao hơn hẳn trước kia, người nghèo được đảm bảo cơ hội học tập cho con em tốt hơn trước:
- Với học phổ thông, mầm non, nhà nước là người chi lớn nhất, chủ yếu cho giáo dục. Học phí chỉ là sự chia sẻ theo khả năng thu nhập của gia đình học sinh với nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc: học phí theo khả năng chi trả của hộ gia đình, được cụ thể hoá bằng yêu cầu chi phí cho học tập của con em không vượt quá 6% thu nhập của gia đình, thì với các bậc phổ cập (tiểu học, trung học cơ sở), mầm non, trung học phổ thông ở các trường công lập, học phí không bao giờ là gánh nặng tài chính cho gia đình. Gia đình nghèo còn được nhà nước trợ cấp tiền để mua đủ sách vở, đồ dùng học tập, giày dép… cho con đi học.
Khi kinh tế khó khăn do thiên tai hoặc suy thoái của vùng hay cả nước, thì theo Đề án, người nghèo càng được quan tâm hơn, vì số người được miễn giảm học phí sẽ tăng, số người được Nhà nước trợ cấp để có điều kiện cho con đi học được tăng thêm.
- Những người có thu nhập cao hơn có quyền và nghĩa vụ đóng góp nhiều hơn cho việc học hành của con em mình, trong khi nhà nước vẫn là người chi chủ yếu cho con em họ đi học, để nhà nước có thể thay vì bao cấp cho người khá giả sẽ dành phần đó hỗ trợ nhiều hơn cho người khó khăn hơn.
- Đối với đào tạo nghề nghiệp (học nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) học phí tăng thêm sẽ làm chi phí cho đào tạo cho một người học tăng thêm, là tiền đề trực tiếp để nâng cao chất lượng đào tạo mà sinh viên, học sinh học nghề là người hưởng lợi trực tiếp. Đối với gia đình nghèo, cận nghèo, khó khăn, nhà nước đã có chính sách cho vay để học, với mức vay được điều chỉnh khi học phí tăng. Do đó, nhà nước đảm bảo cơ hội học tập với chất lượng cao hơn cho học sinh, sinh viên.
3. Chất lượng đào tạo được tăng thêm, từ đó làm cho hiệu quả lao động của người tốt nghiệp cao hơn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Với việc tăng chi của nhà nước cho đào tạo (nhất là dạy nghề), nhà nước chi trả phần học phí miễn giảm thay cho các đối tượng chính sách được miễn giảm và học phí đào tạo được tăng thêm, các cơ sở đào tạo có điều kiện vừa đảm bảo thu nhập của giáo viên, vừa tăng cường cơ sở vật chất, hoàn thiện chương trình đào tạo, quản lý nhà trường.
- Học phí đào tạo có sự phân biệt giữa 7 nhóm ngành nghề đào tạo, từ đó làm cho chi phí đào tạo phù hợp hơn với đặc điểm của các ngành nghề đào tạo, làm cho chất lượng đào tạo được đảm bảo hợp lý hơn.
4. Thông qua cơ chế học phí mới và các chính sách khuyến khích xã hội hoá, sự đóng góp của xã hội cho giáo dục sẽ cao hơn, song luôn đảm bảo yêu cầu phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân và các nhà đầu tư, không gây gánh nặng về tài chính cho gia đình người học:
- Với mức chi phí cho học phí không vượt quá 6% thu nhập của hộ gia đình, các hộ có thu nhập khá có khả năng đóng học phí cao hơn trước kia (35.000 đồng/tháng), do đó góp phần tăng đóng góp của người dân vào hệ thống giáo dục.
- Bằng chính sách cho vay để học, có thể hiểu là nhà nước tạm ứng thu nhập tương lai của người học nghề, đại học, cao đẳng để họ đóng học phí, thì học phí đào tạo có tăng, song nằm trong khả năng chi trả của người học vì họ được vay, với mức vay được điều chỉnh khi học phí được điều chỉnh.
- Nhà nước đã có chính sách tạo quỹ đất và giao đất miễn phí cho các cơ sở giáo dục được chấp thuận theo quy hoạch, ưu đãi thuế cho giáo dục ở mức cao nhất, do đó sắp tới đầu tư của xã hội cho giáo dục sẽ tăng.
5. Đời sống thầy cô giáo và điều kiện làm việc sẽ được chăm lo tốt hơn, để các thầy cô không ngừng nâng cao trình độ, nêu cao tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo, phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo là quốc sách:
- Thông qua việc đảm bảo kinh phí cao hơn từ nhà nước và học phí đào tạo cao hơn, các thầy cô giáo có điều kiện thu nhập và làm việc tốt hơn, ngay cả khi tỷ lệ sinh viên trên giảng viên giảm xuống.
- Thực hiện chế độ thâm niên nghề nghiệp sẽ làm cho thầy cô yên tâm với nghề hơn.
- Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học, nhà công vụ cho giáo viên, các thầy cô bậc mầm non và phổ thông sẽ có điều kiện làm việc và sống tốt hơn.
Trên đây là đánh giá bước đầu 5 tác động của Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục 2009 - 2014.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN CỦA QUỐC HỘI
Chính phủ xin ý kiến Quốc hội về các nội dung cơ bản của Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014 trong đó trọng tâm là 2 mục tiêu tổng quát và 8 nội dung đổi mới cơ chế tài chính và lộ trình thực hiện các nội dung này như đã trình bày trên đây. Sau khi được chỉ đạo và chấp thuận của Quốc hội, Chính phủ sẽ hoàn chỉnh lại Đề án và ban hành Nghị định về cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trên đây là tóm tắt nội dung cơ bản của Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 - 2014, Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định./.
Nơi nhận: - Như trên; - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Văn phòng Trung ương Đảng; - Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Các Bộ: GD&ĐT, TC, KH&ĐT, LĐTB&XH, NV, TP; - VPCP: BTCN, các PCN, các Vụ: KTTH, ĐP, TH; - Lưu: Văn thư, KGVX (3).XH | TM. CHÍNH PHỦ KT. THỦ TƯỚNG PHÓ THỦ TƯỚNG (đã ký)
Nguyễn Thiện Nhân |