Thông báo 09/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ về ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2007 và triển khai nhiệm vụ năm 2008 của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Thông báo 09/TB-VPCP
Cơ quan ban hành: | Văn phòng Chính phủ |
Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 09/TB-VPCP |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông báo |
Người ký: | Văn Trọng Lý |
Ngày ban hành: | 17/01/2008 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: | Nông nghiệp-Lâm nghiệp |
tải Thông báo 09/TB-VPCP
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
Số: 09/TB-VPCP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng 01 năm 2008 |
THÔNG BÁO
Ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2007
và triển khai nhiệm vụ năm 2008 của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ngày 7 tháng 01 năm 2008, tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dự Hội nghị tổng kết công tác năm 2007 và triển khai nhiệm vụ năm 2008 của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sau khi nghe lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch ngành năm 2007 và triển khai nhiệm vụ năm 2008; ý kiến của lãnh đạo các địa phương, đơn vị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến chỉ đạo như sau:
I. Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch năm 2007
Cơ bản đồng ý với nội dung đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về những mặt được, chưa được, các tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện nhiệm vụ năm 2007 của ngành và nhấn mạnh một số điểm sau đây:
1. Năm 2007, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi lớn, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Giá cả nhiều vật tư, hàng hóa trên thị trường thế giới và trong nước tăng cao; thiên tai, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi gây thiệt hại lớn (riêng thiệt hại thiên tai khoảng 11.500 tỷ đồng, tương đương gần 1% GDP của nền kinh tế). Bằng sự nỗ lực cố gắng tăng cao, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Giá trị sản lượng tăng 4,6%, riêng thủy sản tăng 11%, giá trị gia tăng tăng 3,4%. Sau một năm gia nhập WTO, nhiều mặt hàng nông lâm thủy sản bước đầu khẳng định khả năng cạnh tranh; kim ngạch xuất khẩu toàn ngành ước đạt 12,5 tỷ USD, tăng 2,6%, trong đó đã có 5 ngành hàng (trong tổng số 10 ngành hàng của nền kinh tế) đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD; kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được đầu tư phát triển, an ninh lương thực được đảm bảo, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực hơn; một số chỉ tiêu đã về trước kế hoạch năm 2010 như diện tích cao su, cà phê, khoanh nuôi tái sinh rừng, khai thác thủy sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản...
Đi liền với những kết quả đạt được nêu trên, đời sống của nông dân và cư dân nông thôn tiếp tục được cải thiện. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn ước tăng khoảng 6,6% so với năm 2006 (sau khi đã trừ yếu tố tăng giá), nếu chúng ta kiểm soát tốt hơn việc tăng giá tiêu dùng thì đời sống của người dân còn được cải thiện nhiều hơn nữa; công tác xóa đói giảm nghèo trong nông nghiệp, nông thôn đạt được kết quả tích cực, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 18% xuống còn 16%; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục... cũng có chuyển biến tích cực; công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng đạt được một số kết quả quan trọng bước đầu và được nhân dân đồng tình, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta; công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng hệ thống chính trị, kiện toàn bộ máy tổ chức, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong nông nghiệp, nông thôn có nhiều tiến bộ.
Kết quả của toàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2007 đã góp phần quan trọng vào ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đất nước, tạo ra thế, lực và điều kiện mới cho phép toàn ngành đề ra và thực hiện kế hoạch năm 2008 của ngành ở mức cao hơn.
2. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém, nổi lên là: chất lượng quy hoạch sản xuất và quy hoạch phát triển hạ tầng chưa cao; việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, bao gồm cả cơ cấu lao động còn chậm; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn còn nhiều mặt hạn chế; cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; đời sống dân cư nông thôn tuy có được cải thiện nhưng còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng thường xuyên bị thiên tai; việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, nông, lâm trường quốc doanh còn chậm; thu hút vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực nông nghiệp và nông thôn còn khó khăn, trong khi đó giải ngân các nguồn vốn đầu tư phát triển còn chậm; ô nhiễm môi trường nông thôn, nạn cháy rừng và chặt phá rừng xảy ra còn nghiêm trọng; cải cách hành chính, nhất là các thủ tục hành chính và phòng chống tham nhũng chưa tạo được bước chuyển biến mạnh mẽ.
II. Về một số việc cần tập trung triển khai trong năm 2008:
Năm 2008 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010; là năm cả nước quyết tâm phấn đấu cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp, để đến năm 2009, 2010 phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Với tinh thần đó, Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2008. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là ngành có vị trí quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Tuy chỉ chiếm khoảng trên 20% GDP của nền kinh tế, nhưng ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có địa bàn lớn, chiếm cơ cấu lớn về dân số và lực lượng lao động của cả nước. Do vậy, yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương cần rà soát lại để đề ra các chỉ tiêu với tinh thần là tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, quyết tâm hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) của ngành ngay trong năm 2008; trong đó tập trung vào những chỉ tiêu hiện nay đang đạt ở mức thấp như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế (phải giảm cơ cấu GDP nông lâm nghiệp và thủy sản từ 20% hiện nay xuống còn 15-16% vào năm 2010); chuyển dịch cơ cấu lao động (phải giảm cơ cấu lao động nông, lâm, ngư nghiệp từ khoảng 55% hiện nay xuống dưới 50% vào năm 2010)...; từ đó đề ra và chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp để thực hiện thắng lợi kế hoạch ngành năm 2008, trong đó cần tập trung vào chỉ đạo các trọng tâm sau:
1. Làm tốt việc rà soát, hoàn thiện quy hoạch sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn theo hướng đẩy mạnh sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn (bao gồm cả cơ cấu lao động); tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề nông thôn, trên cơ sở đó tăng thu nhập cho cư dân ở khu vực này.
Quy hoạch phải phát huy được và sử dụng có hiệu quả tiềm năng lợi thế của từng vùng, từng địa phương và cả nước; gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Trong quy hoạch cần lưu ý đến việc hạn chế tối đa các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu, nâng cao khả năng phòng chống và giảm nhẹ thiên tai; phòng chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ và cải thiện môi trường. Quy hoạch sản xuất phải đi liền với việc đề ra cơ chế, chính sách và các chế tài để thực hiện, trong đó lưu ý đối với từng nhóm cây trồng, vật nuôi, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ ngành nghề nông thôn như sau:
- Đối với nhóm cây nông nghiệp: Cần rà soát để cơ cấu lại cây trồng, mùa vụ đảm bảo an ninh lương thực; tiếp tục nâng cao nhanh hiệu quả canh tác trên một đơn vị diện tích; có định hướng về quy mô đất đai, sản lượng, chất lượng nông sản cho từng loại cây trồng phù hợp với thị trường; hạn chế tối đa việc chuyển diện tích lúa sang sử dụng cho mục đích khác; đẩy mạnh sản xuất các nông sản mà ta có điều kiện sản xuất và lợi thế cạnh tranh, thị trường để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu công nghiệp chế biến, tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như lúa gạo, cao su, cà phê, sản phẩm gỗ, hạt điều, hạt tiêu, chè..., đồng thời đẩy mạnh sản xuất một số nông sản thay thế nhập khẩu mà ta có khả năng sản xuất để tạo thêm việc làm, thu nhập cho nông dân, góp phần giảm bớt nhập siêu như ngô, đậu tương làm thức ăn chăn nuôi...
- Đối với chăn nuôi: Cần tổ chức lại để phát triển mạnh cả chăn nuôi gia súc và gia cầm, tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung trang trại, nuôi công nghiệp, từng bước được hiện đại, gắn với các cơ sở chế biến và xử lý chất thải, đảm bảo an toàn dịch bệnh, vệ sinh môi trường, sức khỏe người dân.
- Đối với lâm nghiệp: Cần rà soát lại để điều chỉnh cơ cấu 3 loại rừng phù hợp, chỉ giữ lại diện tích rừng phòng hộ, đặc dụng ở mức hợp lý, còn lại chuyển hết sang rừng sản xuất, gắn với điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để nâng cao hiệu quả và đáp ứng thêm nhu cầu đất cho phát triển cao su và một số cây công nghiệp khác; đẩy mạnh phát triển rừng cả trồng mới và khoanh nuôi, đi đôi với việc bảo vệ rừng, đảm bảo độ che phủ rừng 42-43% vào năm 2010. Tiếp tục kiên quyết thực hiện sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh theo tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị.
- Đối với thủy sản: Phải đảm bảo phát triển nhanh, toàn diện cả khai thác, nuôi trồng, chế biến xuất khẩu, trong đó, tập trung phát triển mạnh hơn nữa nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao, có điều kiện phát triển; chú ý bảo đảm về giống, kỹ thuật nuôi trồng, kiểm soát bảo đảm an toàn dịch bệnh, vệ sinh thực phẩm, bảo vệ và cải thiện môi trường.
- Đối với diêm nghiệp: Tiếp tục phát triển sản xuất muối theo hướng hiện đại hóa, sản xuất muối chất lượng cao, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất và tiêu dùng trong nước; nâng cao đời sống người làm muối.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, tạo chuyển biến tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Quan tâm phát triển công nghiệp chế biến, bao gồm chế biến sản phẩm trồng trọt, chế biến gỗ, chế biến sản phẩm chăn nuôi, chế biến thủy sản, gắn công nghiệp chế biến với phát triển vùng nguyên liệu, tăng cường thực hiện sản xuất nông lâm thủy sản nguyên liệu theo hợp đồng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm làm tốt quy hoạch tổng thể phát triển các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có trách nhiệm quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu đáp ứng cho nhà máy, cơ sở chế biến của mình: Trong quy hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn phải chú ý giải quyết những khó khăn, tồn tại hiện nay như bố trí đất đai, cung cấp tín dụng, nâng cao chất lượng sản phẩm, xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe dân cư.
2. Đề ra và thực hiện đồng bộ các giải pháp để tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng nông, lâm, thủy sản, tiết kiệm chi phí để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, cần tập trung chủ yếu vào việc áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trước hết là các tiến bộ về giống cây trồng, vật nuôi, về quy trình canh tác, nuôi trồng, biện pháp thâm canh, bảo quản, chế biến, giảm tổn thất trong và sau thu hoạch, kiểm soát dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm. Đồng thời tập trung rà soát lại tất cả các khâu từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ để có biện pháp tiết kiệm chi phí hợp lý, trước hết tập trung vào những ngành hàng, sản phẩm chủ lực, vào những khâu, những khoản mục chi phí còn cao hoặc liên quan đến việc sử dụng nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm như năng lượng, nước, phân bón,...
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần coi đây là một chuyên đề, xây dựng thành chương trình, đề ra mục tiêu, giải pháp cụ thể để tập trung chỉ đạo thực hiện.
3. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn, nhất là đào tạo nghề cho con em nông dân.
Hiện nay cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; chất lượng lao động xã hội còn thấp, có tới 70% lao động chưa qua đào tạo nghề, trong nông nghiệp và nông thôn tỷ lệ này còn cao hơn. Chính phủ coi đây là một trọng tâm trong chỉ đạo điều hành của mình trong năm 2008. Chính phủ sẽ bố trí tối đa nguồn vốn của Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tháo gỡ khó khăn vướng mắc, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư phát triển.
Đào tạo nghề là lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Chính phủ sẽ tiếp tục có chính sách hỗ trợ thích hợp, phát huy vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp, của xã hội trong đào tạo nghề ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo nghề và sử dụng lao động tại chỗ đối với các dự án đầu tư, các khu công nghiệp có thu hồi đất của nông dân. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các địa phương, theo chức năng nhiệm vụ của mình phải rà soát, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện để tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác dạy nghề trong nông nghiệp nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2010 có 50% lao động xã hội đã được qua đào tạo nghề.
4. Cải thiện tốt hơn đời sống nông dân, dân cư nông thôn, góp phần hoàn thành mục tiêu giảm hộ nghèo quốc gia xuống còn 11-12% vào năm 2008. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập để nâng cao mức sống chung ở khu vực này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo chức năng, nhiệm vụ của mình chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục đề ra và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp, chính sách về sản xuất và đời sống để hỗ trợ các hộ nghèo, hộ chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, các hộ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng thường xuyên bị thiên tai vượt qua khó khăn, thoát khỏi đói nghèo. Đại bộ phận hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số, hộ ở vùng sâu, vùng xa ở nước ta sinh sống ở miền núi, gắn liền với rừng, cho nên phải làm tốt việc giao bảo vệ rừng, giao đất trồng rừng kết hợp với phát triển nông nghiệp (tự túc một phần lương thực, trồng cỏ, phát triển chăn nuôi), hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ lương thực, gắn với xếp các nông lâm trường để tạo quỹ đất và hỗ trợ sản xuất, việc làm cho đồng bào.
5. Làm tốt việc phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai. Trong những năm gần đây, thiên tai, bão lũ và biến đổi khí hậu ngày càng diễn ra phức tạp, khó lường và gây thiệt hại nặng nề. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Chiến lược này nhằm tiếp tục nâng cao khả năng phòng, chống lũ, bão và giảm nhẹ thiên tai, trong đó tập trung vào việc làm tốt công tác dự tính, dự báo; nâng cấp, củng cố hệ thống đê điều, an toàn các hồ chứa nước, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện tốt phương châm 4 tại chỗ, phòng, tránh lũ quét, sạt lở đất, bảo đảm an toàn cho ngư dân và tàu thuyền nghề cá hoạt động trên biển. Đồng thời chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các Dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM), các Dự án thực hiện công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp theo Quyết định số 47/2007/QĐ-TTg ngày 6 tháng 4 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ để chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu toàn cầu.
6. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm. Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ về cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, trong đó trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, nhằm công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển. Đề cao vai trò, trách nhiệm, sự gương mẫu và quyết liệt của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; trong đó phải tập trung xây dựng chương trình, kế hoạch và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; xử lý kịp thời, kiên quyết các hành vi tham nhũng, không để vụ việc tham nhũng xảy ra mà không được xem xét. Trước mắt cần tập trung giải quyết dứt điểm theo quy định của pháp luật một số vụ việc đã phát hiện liên quan đến quản lý sử dụng vốn, tài sản, đất đai thuộc ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương tổng kết việc thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, trên cơ sở đó chuẩn bị tốt Đề án về Tam nông: Nông nghiệp, Nông thôn và Nông dân cho thời kỳ tiếp theo, báo cáo Chính phủ để trình Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương đúng tiến độ.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành có liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận: - Thủ tướng, các PTTg CP; - Các Bộ: Nông nghiệp và PTNT, KH&ĐT, Tài chính, Công Thương, LĐTB&XH, TN&MT, GTVT, KH&CN, Y tế, Giáo dục và Đào tạo; - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; - UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - VPCP: BTCN, các PCN, Các Vụ: KTTH, TTBC, ĐP, TH, KG, VX, CN, Website Chính phủ; - Lưu: VT, NN (6), Huệ. 110 | KT. BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM PHÓ CHỦ NHIỆM
(Đã ký)
Văn Trọng Lý |
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây