Trả lời:
Theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết, cụ thể:
- Điều 134: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
- Điều 135: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
- Điều 136: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Điều 138: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
- Điều 139: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
- Điều 141: Tội hiếp dâm;
- Điều 143: Tội cưỡng dâm;
- Điều 155: Tội làm nhục người khác;
- Điều 156: Tội vu khống;
- Điều 226: Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp.
Theo đó, các tội phạm thuộc khoản 1 các điều nêu trên chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Song theo thông tin bạn trình bày, hành vi của người kia có dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản và không thuộc các tội phạm chỉ bị khởi tố theo yêu cầu của bị hại nên vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đủ căn cứ cấu thành tội phạm, việc bạn rút yêu cầu khởi tố có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ.
Còn hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhằm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó. Qua thông tin bạn nêu, có thể thấy, bạn không có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.