Trả lời:
Căn cứ pháp lý:
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Nội dung tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp thì vợ bạn (người Đài Loan) đã chuyển cho bạn 500 triệu đồng để mua nhà đất, như vậy thực tế vợ bạn cũng đã đóng góp để tạo lập nhà đất trên với bạn. Mặc dù chỉ bạn là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (lý do vì vợ bạn là người nước ngoài nên không thể đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được) nhưng pháp luật dân sự vẫn công nhận đây là tài sản chung thuộc sở hữu của cả hai người do cùng đóng góp, tạo lập nên. Do bạn chỉ cho biết vợ bạn đưa cho số tiền 500 triệu để mua nhà đất mà không trình bày cụ thể bạn đã mua nhà đất trên với giá bao nhiêu, vợ bạn đã góp bao nhiêu cũng như bạn góp bao nhiêu trong đó để mua nhà đất nên không thể xác định rõ tỷ lệ đóng góp, và vì vậy xác định đây là tài sản chung hợp nhất của hai người.
Căn cứ vào Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Căn cứ vào Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Theo đó, quan hệ tài sản của nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ được chia theo thỏa thuận của các bên. Nếu như không có thỏa thuận thì tiến hành chia tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định liên quan khác.
Hiện tại, nhà đất trên đã được bạn bán với giá 2 tỷ đồng nên giá trị nhà đất là tài sản chung sẽ được xác định là 2 tỷ đồng để phân chia tài sản chung.
Theo quy định tại 210 và Điều 219 Bộ luật Dân sự 2015 thì hai người có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung hợp nhất trên và tài sản này sẽ được chia đôi, mỗi người sẽ được hưởng ½ giá trị tài sản (hay ½ số tiền 2 tỷ đồng).
Như vậy với các thông tin bạn cung cấp ở trên thì xác định nhà đất trên là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của hai người, và số tiền 2 tỷ đồng bán nhà đất phải được chia đều cho cả hai người.
Xem thêm: Không đăng ký kết hôn thì có thể ly hôn không?
Trên đây là nội dung tư vấn về "Quyền sở hữu số tiền bán nhà đất khi sống chung nhưng không kết hôn như thế nào?" dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!