Quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi mua tài sản do trộm cắp mà có

Câu hỏi:

Xin hỏi LuatVietNam: Tôi có mua một chiếc xe ô tô tải cũ giá 40 triệu đồng từ anh A. Xe ô tô này đã bị mất giấy tờ và nó còn cũ nên tôi mua về để chở hàng quanh nhà. Trong quá trình tham gia giao thông, tôi bị công an bắt lại vì không có giấy tờ xe. Sau khi công an điều tra ra thì phát hiện chiếc xe tôi mua là tài sản ăn trộm của anh A. Vậy trong trường hợp này tôi có bị công an truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản ăn trộm không? Nếu không thì chiếc xe này sẽ được xử lý như thế nào và tôi có được bồi thường gì từ ai đó không ạ? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Theo quy định của pháp luật về việc đăng ký quyền sở hữu tài sản là động sản có đăng ký theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì xe ô tô của bạn khi mua buộc phải thực hiện đăng ký tại Cơ quan Nhà nước cấp có thẩm quyền khi nhận chuyển nhượng từ ông A theo quy định của pháp luật.

Mặc dù, theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Do đó, việc mua bán xe bắt buộc phải có xác nhận công chứng hoặc chứng thực hoặc xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 8 Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16/6/2020 của Bộ Công an. Bởi vì, đây là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán xe cũ.

Trường hợp mua lại xe thanh lý của doanh nghiệp, công ty thì không bắt buộc phải có Quyết định thanh lý xe của cấp có thẩm quyền và hóa đơn bán tài sản công hoặc hóa đơn bán tài sản nhà nước hoặc Giấy chứng nhận đăng ký xe, công văn xác nhận xe đã được loại khỏi trang bị quân sự của Cục Xe - máy, Bộ Quốc phòng và hóa đơn bán tài sản công hoặc hóa đơn bán tài sản nhà nước theo quy đinh tại điểm c và d khoản 2 Điều 8 Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16/6/2020 của Bộ Công an.

Nếu ngay từ đầu bạn không biết chiếc xe ô tô của ông A không phải là chính chủ, không có giấy tờ khi mua bán để đăng ký sang tên tại Cơ quan Nhà nước cấp có thẩm quyền, dẫn đến việc bạn không biết được chiếc xe ô tô của ông A có nguồn gốc từ đâu thì bạn có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, xe ô tô là động sản có đăng ký nên khi bạn mua chiếc xe ô tô của ông A mà báo mất giấy tờ, do đó bạn sẽ không thể thực hiện việc đăng ký sang tên, nếu ông A không xuất trình được các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc giấy mua bán theo quy định. Do đó, giao dịch này thể vô hiệu do bị lừa dối không đảm bảo về hình thức có hiệu lực của hợp đồng giao dịch mua bán theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 và được giải quyết theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015.

Đối với trường ngay từ đầu bạn đã biết chiếc xe ô tô của ông A không phải là chính chủ, không có giấy tờ khi mua bán và biết rõ chiếc xe ô tô do ông A trộm cắp hoặc mua lại do người khác trộm các để bán cho bạn sử dụng để chở hành thì được coi là tài sản do vi phạm pháp luật mà có nên sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính Phủ đối với hành vi: “Mua, bán, cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có”.

Hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Qua sự việc nêu trên Luật sư Nguyễn Đức Hùng nhấn mạnh “Nếu là xe trộm cắp thì thường sẽ không có giấy tờ gì chứng minh quyền sở hữu đối với chiếc xe”. Do đó, khuyến cáo mọi người dân chỉ nên mua xe khi có: “Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân có xác nhận công chứng hoặc chứng thực hoặc xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác đối với lực lượng vũ trang và người nước ngoài làm việc trong cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà đăng ký xe theo địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị công tác” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 8 Thông tư số 58/2020/TT-BCA ngày 16/6/2020 của Bộ Công an.

Trên đây là nội dung tư vấn dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!

Đào Thị Liên

Được tư vấn bởi: Luật sư Đào Thị Liên

Công ty Luật Tiền Phong

http://luattienphong.vn/- 091 6162 618

*Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: [email protected]
Quý khách có bất kỳ vấn đề nào cần tư vấn, hãy đặt câu hỏi cho các luật sư để được tư vấn một cách nhanh chóng nhất!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

loading
Vui lòng đợi