Trả lời:
Liên quan đến ma túy, căn cứ theo tiểu mục 1.1, Mục 1 Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP (được sửa đổi bởi khoản 1, Điều 1 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP) quy định như sau:
1.1. “Chất ma túy” là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Trong đó, cần phân biệt các trường hợp sau:
a) Đối với các chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch hoặc chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng thì không coi toàn bộ dung dịch hoặc dung dịch pha loãng này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng chất ma túy trong dung dịch để tính, trọng lượng chất ma túy đó.
Ví dụ: Thuốc phiện, hêrôin được hòa thành dung dịch thì không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng moócphin cùng với các thành phần khác của thuốc phiện trong dung dịch để tính trọng lượng của thuốc phiện hoặc xác định hàm lượng moócphin cùng với các thành phần khác của hêrôin để tính trọng lượng hêrôin
b) Đối với xái thuốc phiện thì không coi là nhựa thuốc phiện mà phải xác định hàm lượng moocphin trong xái thuốc phiện để tính trọng lượng của thuốc phiện.
Quay trở lại với vấn đề trên, cần phải căn cứ vào ý thức của người mua khi đó. Trường hợp người đó không biết chất đó là ma túy giả, theo quy định tại khoản 2, Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP đã chỉ rõ: “Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy nhưng người thực hiện hành vi phạm tội ý thức rằng chất đó là ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu TNHS người đó theo tội danh quy định tại Khoản 1 của điều luật tương ứng với các tội phạm về ma túy.”
Ngoài ra, đối với người bán biết chất ma túy giả nhưng vẫn bán cho người khác, theo khoản 2, Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP quy định: Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Do đó, dù chất ma túy mà người mua mang về là giả, nếu họ có ý thức rằng chất đó là chất ma túy thì vẫn có căn cứ truy cứu TNHS. Tuy nhiên, để xác định tội danh chính xác đòi hỏi hồ sơ và tài liệu, chứng cứ cụ thể.
Xem thêm: Bán ma túy giả phạm tội gì?
Trên đây là nội dung tư vấn về “Mua ma túy để sử dụng khi bị bắt mới biết là ma túy giả thì có bị truy cứu TNHS?” dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!