Trả lời:
Theo Điều 167 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: "Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Theo đó, chiếc điện thoại của bạn là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình do bạn đã làm mất điện thoại tại Ngân hàng Y và người chiếm hữu ngay tình (anh B) có được chiếc điện thoại này dựa trên một giao dịch có đền bù (mua bán, trao đổi…) với anh A.
Như vậy, bạn có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc B trả lại chiếc điện thoại cho bạn, đồng thời buộc A trả lại tiền cho B. Tuy nhiên, bạn phải chứng minh đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của mình do bị mất hoặc bị chiếm hữu ngoài ý chí của mình.
Tất nhiên, trong tình huống này, người đang chiếm hữu ngay tình (anh B) cũng phải chứng minh căn cứ mà anh B chiếm hữu và có được chiếc điện thoại do mua từ anh A với giá 7 triệu là việc giao dịch mua bán hợp pháp nhưng trường hợp này chỉ áp dụng trong trường hợp anh B không biết rõ về nguồn gốc của chiếc điện thoại.
Nếu B biết rõ chiếc điện thoại đó là do anh A nhặt được của bạn nhưng A không trả lại cho bạn mà B vẫn cố tình mua thì hành vi của A và B có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trên đây là nội dung tư vấn dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!